Tọa lạc ngay cạnh cảng Cầu Đá, Nha Trang, mỗi ngày, Viện Hải dương học Nha Trang, trong đó có Bảo tàng Hải dương học Việt Nam, tiếp đón hàng nghìn lượt người đến tham quan, học tập, nghiên cứu. Được mệnh danh là không gian thu nhỏ của biển Việt Nam, bảo tàng hiện có trên 20.000 mẫu sinh vật được thu thập từ hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và một số vùng trên biển Đông. Ngày nay, đến Viện Hải dương học Nha Trang, nhiều người đã dừng chân rất lâu trước mô hình một con tàu được đặt ở một vị trí rất trang trọng. Đó là con tàu mang tên De Lanessan.
Trong ký ức của những người nghiên cứu biển Việt Nam kỳ cựu, hình ảnh con tàu ấy rất đỗi quen thuộc và thiêng liêng. Chạy bằng hơi nước, được trang bị công năng phục vụ công việc thám sát biển với những chuyến đi dài ngày, con tàu mang tên De Lanessan ghi nhớ một nhân vật đặc biệt: Bác sĩ Hải quân Jean - Marie de Lanessan, người nổi tiếng trong giới khoa học cũng như trên chính trường nước Pháp, từng được bổ nhiệm làm toàn quyền Đông Dương trong khoảng thời gian từ năm 1891 đến 1894. Tàu De Lanessan có trọng tải 750 tấn, dài 45m, mặt boong rộng 7,63m, mớn nước 4,45m, công suất 350CV, được trang bị lưới quét, cùng nhiều máy móc, thiết bị hiện đại phục vụ công tác nghiên cứu khoa học trên biển. Thể theo yêu cầu về việc nghiên cứu khu vực biển Đông cần phải có một chiếc tàu đủ lớn, tàu De Lanessan được bàn giao cho Sở Hải dương học nghề cá Đông Dương ngày 21/6/1924, tại cảng Bordeaux, Pháp.
Sau nhiều chặng hải trình sóng gió, ngày 7/11/1924, tàu De Lanessan cập cảng Hải Phòng. Ngày 7/4/1925, tàu được điều động đến vịnh Bắc bộ. Ngay một ngày sau đó, tàu tiến hành đánh mẻ lưới thí nghiệm đầu tiên trên biển Việt Nam, tại tọa độ 20 độ vĩ Bắc và 106,5 độ kinh Đông. Kể từ đó, nhật ký hải trình của con tàu De Lanessan mở ra trên vùng biển Việt Nam, gắn với những chuyến thám sát, nghiên cứu biển dài ngày của các nhà khoa học thuộc Sở Hải dương học nghề cá Đông Dương khi đó, tiền thân của Viện Hải dương học Nha Trang bây giờ.
Chuyến ra khơi đầu tiên, tàu De Lanessan đưa các nhà khoa học của Sở Hải dương học nghề cá Đông Dương đến quần đảo Hoàng Sa vào tháng 6/1925, bắt đầu nghiên cứu kiến tạo địa chất của quần đảo này. Ở đây, theo các nhà khoa học mô tả, chim trời các loại nhiều vô kể. Trên mặt đất, phân chim đóng từng lớp, rất dày. Trong báo cáo của Sở Hải dương học nghề cá Đông Dương năm 1925-1926, Tiến sĩ Pierre Chevey, sau này là Giám đốc Viện Hải dương học thời gian từ năm 1933 đến 1942, kể lại:
Chúng tôi chỉ thấy có một ít thuyền buồm đến những đảo nhỏ hoang vắng này để đánh bắt rùa biển, trai biển khổng lồ (tridacna), hải sâm và các loài hải sản khác mà người ta chỉ thấy trên những đảo san hô. Thật ra, đấy không phải là những thuyền buồm của người chuyên đánh cá đến để khai thác hải sản trên dải đá ngầm của quần đảo Hoàng Sa. Đây là những nhà hàng hải mà hằng năm chúng tôi vẫn thấy họ qua lại vào thời gian gió mùa.
Chuyến khảo sát của Sở Hải dương học nghề cá Đông Dương hồi ấy được xác định là hoạt động nghiên cứu khoa học biển đầu tiên trên quần đảo Hoàng Sa, do Việt Nam thực hiện. Tiếp đó, tàu De Lanessan đã thực hiện hàng loạt hoạt động thăm dò và kéo lưới cào để khảo sát thềm lục địa ở đây. Qua đó, các nhà khoa học đã thu thập được nhiều tư liệu thể hiện sự hình thành nền của quần đảo Hoàng Sa.
Trong Báo cáo của Sở Hải dương học nghề cá Đông Dương, năm 1925-1926, Tiến sĩ Pierre Chevey thuật lại:
Chúng tôi đã phát hiện sự kiến tạo dưới biển quan trọng trong đợt nghiên cứu vừa mới tiến hành ở khối đảo cách ly ở giữa biển Đông, bao gồm quần đảo Hoàng Sa. Qua thăm dò ở thềm lục địa, quần đảo Hoàng Sa có những bãi đá ngầm và đảo nhỏ nhô lên, chúng tôi đã ghi nhận đáy biển ở đây sâu từ 40 đến 100m, được tạo nên từ những nguyên liệu thuộc nhóm cuối cùng bởi các trầm tích san hô. Đó là một bề mặt mà địa hình thuộc thời kỳ băng hà bị nước biển bao phủ sau lần tan băng cuối cùng, sau đó dần dần tách khỏi bờ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho san hô phát triển. Ngày nay nó được bao phủ bởi một lớp san hô đang sống, cát và cuội san hô.
Nghiên cứu Hình dạng các đảo san hô ngầm và chế độ gió của Tiến sĩ Armand Krempf công bố năm 1927 cho thấy đầy đủ quá trình hình thành các đảo ở Hoàng Sa từ địa chất đến hình dạng. Nói thêm, sau đó, Tiến sĩ Armand Krempf được bổ nhiệm làm Giám đốc Viện Hải dương học thời gian từ năm 1930 đến 1933. Tương đồng một số nét trong nội dung của Tiến sĩ Armand Krempf, trong báo cáo năm 1930-1931, Tiến sĩ Pierre Chevey kể lại:
Trong năm 1926, chúng tôi đã thăm đảo đá ngầm rất đẹp Decouverte, hình thái cấu tạo của nó chứng minh rõ ràng ảnh hưởng của gió mùa tới sự hình thành của các đảo san hô. Trong đảo ngầm này có hai tập hợp san hô phát triển về hai hướng nghịch nhau: Đông Bắc và Tây Nam, ở phần đỉnh của những dải này có hai lối vào các vùng tại giữa đảo san hô này chưa khép kín. Hai đảo đá ngầm ấy, đảo ngầm Chim Yến và đảo ngầm Bắc, là một vùng đã nổi lên từ rất lâu. Đảo ngầm Chim Yến có dạng hình vòng đầy đủ, nhưng bờ ở phía Đông Bắc dày hơn vùng bờ phía Tây Nam, như vậy chứng tỏ gió mùa Đông ảnh hưởng lên sự tiến hóa của đảo. Do đó, vùng giữa đảo đi lệch tâm và đẩy về phía Tây Nam. Tuy nhiên, ở phía Tây Bắc có một vùng san hô rất mỏng và không nổi lên, mặc dù không bị ngắt quãng nhưng những thuyền nhỏ có thể đi vào vùng bên trong được.
Trong chuyến khảo sát của tàu De Lanessan tại Hoàng Sa tháng 6 và 7/1926, các nhà khoa học đã tìm thấy mỏ phosphat được tạo nên bởi phân chim trên các đảo. Mỏ phosphat lộ thiên trên các đảo ở Hoàng Sa đã được biết đến từ trước, bởi các nhà hàng hải thường xuyên qua lại nơi đây, nhưng chưa được khảo sát, nghiên cứu một cách đầy đủ để xác định trữ lượng và tính khả thi trong khai thác. Tháng 5/1931, tàu De Lanessan ra Hoàng Sa mang theo vị khách mời đặc biệt: kỹ sư Maurice Clerget, một chuyên gia về hóa chất, mỏ, để có thể thực hiện khảo sát mỏ phosphat một cách đầy đủ, chu đáo hơn. Theo báo cáo của Viện Hải dương học Nha Trang, đã có hơn một tấn mẫu phosphat được đưa về Đà Nẵng bằng lưới kéo của tàu De Lanessan để ông Maurice Clerget phân tích. Những kết quả đầu tiên từ nghiên cứu ấy cho biết, ở Hoàng Sa, trữ lượng quặng phosphat có thể lên tới tám triệu mét khối. Tuy nhiên, nếu khai thác, sẽ phải đối mặt với một khó khăn rất lớn, đó là vấn đề vận chuyển.
Báo cáo của Viện Hải dương học Nha Trang, năm 1930- 1931, nêu:
Về mặt này, những kinh nghiệm của thủ thủy tàu De Lanessan trong những lần đi nghiên cứu các đảo Hoàng Sa sẽ là thông báo quý báu cho tất cả những ai muốn thử khai thác những lớp quặng rất phong phú ấy ở Đông Dương.
Thực tế, tàu De Lanessan đã có bốn chuyến khảo sát vùng biển Hoàng Sa của Việt Nam. Cụ thể các đợt gồm: tháng 6/1925; tháng 6 và 7/1926; tháng 5 và 6/1931 và tháng 10/1935. Nhờ hoạt động hiệu quả của tàu De Lanessan, Sở Hải dương học nghề cá Đông Dương đã mở rộng phạm vi nghiên cứu và thu thập thông tin xuống phía Nam: vịnh Thái Lan; lên phía Bắc: vịnh Bắc bộ; ra các vùng khơi xa và hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa; khảo sát có hệ thống và định kỳ trên 572 trạm, đặc biệt là hai trạm cố định, một ở Cầu Đá, Nha Trang và một ở quần đảo Hoàng Sa.
Kể từ năm 1925, tàu De Lanessan đã gắn chặt với các hoạt động của Viện Hải dương học. Trong các báo cáo thường niên của viện đều có nội dung hoạt động của con tàu. Chẳng hạn như Báo cáo năm 1927-1928 viết:
Trong cả năm hoạt động, tàu De Lanessan đã đi được 106 ngày trên biển, trong đó đã dành trên 300 giờ khảo sát đáy biển và kéo lưới. Như vậy, kể từ khi bắt đầu nghiên cứu đến nay, tổng số giờ con tàu dành cho nghiên cứu về địa lý hải dương học và đánh cá ngoài khơi lên đến gần 1.000 giờ.
Tiến sĩ Võ Sĩ Tuấn, nguyên Viện trưởng Viện Hải dương học Nha Trang cho biết: Sở Hải dương học nghề cá Đông Dương (Service Océanographique des Pêches de l’Indochine) là cơ quan tiền thân của Viện Hải dương học Đông Dương, nay là Viện Hải dương học Nha Trang, được thành lập theo quyết định của Toàn quyền Đông Dương François Marius Baudoin ký ngày 1/9/1922. Đây là cơ quan nghiên cứu khoa học về biển có bề dày lịch sử lớn nhất nước ta. Từ khi mới ra đời, hoạt động khảo sát, nghiên cứu của viện đã gắn liền với vùng biển Hoàng Sa, Trường Sa. Và con tàu De Lanessan đã có đóng góp rất quan trọng trong những kết quả khảo sát, nghiên cứu ấy.
Rất tiếc, do hư hỏng, tàu De Lanessan đã phải về Sài Gòn để sửa chữa. Chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ, các hoạt động nghiên cứu của Viện Hải dương học Nha Trang gặp nhiều khó khăn. Không thể trở lại hoạt động trên địa bàn cũ, nhưng, có thể nói, sự hiện diện của con tàu De Lanessan trên quần đảo Hoàng Sa và những đóng góp quan trọng của con tàu trong quá trình nghiên cứu sự hình thành của quần đảo Hoàng Sa từ đầu thế kỷ 20 đã thực sự khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo này, một cách thực tế và khoa học.
Nha Trang, tháng 9 năm 2019