Chúng tôi về dự lễ hội Am Chúa vào một ngày đầu tháng Ba Âm lịch. Nằm trên lưng chừng núi Đại An, còn gọi là núi Dưa, thuộc thôn Đại Điền Trung, xã Diên Điền, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa, Am Chúa là nơi thờ Thánh Mẫu Thiên Y A Na - Mẹ xứ sở đã khai sáng và truyền dạy cho dân chúng nơi này cách làm ăn, sinh sống.
Tên gọi Núi Dưa khiến tôi nhớ tới câu chuyện hai vợ chồng tiều phu trồng dưa trên triền núi Đại An. Có chuyện, đến mùa dưa chín thường hay bị mất. Ông lão rắp tâm rình và bắt gặp một thiếu nữ trạc chín, mười tuổi hái dưa, rồi đùa giỡn dưới ánh trăng. Ông đem cô gái về nuôi, thương yêu như con ruột, mà không hề biết đó là tiên nữ giáng trần. Một hôm trời mưa lụt lớn, tiên nữ biến thân vào khúc kỳ nam, mặc sóng gió đẩy đưa. Đến khi nhớ quê, tiên nữ Thiên Y A Na nhập vào khúc kỳ nam trở về làng cũ. Núi Đại An còn đó, nhưng vợ chồng ông lão tiều phu đã hóa người thiên cổ. Thiên Y A Na khôn nguôi thương nhớ, xây đắp mồ mả; sửa sang nhà cửa để thờ tự. Rồi dạy người dân địa phương cày cấy, kéo vải dệt sợi, thực hành nghi lễ trong đời sống… Cho tới một ngày, chim hạc đưa Thiên Y A Na về trời. Để lại non nước Khánh Hòa những câu chuyện kỳ bí về trầm hương, kỳ nam.
Các cụ ta ngày xưa luôn muốn có một chút kỳ nam trong nhà, để phòng chống trúng gió. Nếu gia đình có người trúng gió, đau bụng, ói mửa, chỉ cần uống một ly rượu ngâm kỳ nam hoặc gọt một chút kỳ nam bỏ vào nước ấm uống thì bệnh dứt liền.
Trong sách Xứ trầm hương, tác giả Quách Tấn cho biết, những người đi tìm trầm trên rừng, còn gọi là đi địu, tin rằng trầm hương là của Bà Thiên Y A Na. Bà cho ai thì người ấy được. Bằng không thì dù có đứng sát một bên cũng không biết, không thấy. Bởi vậy, trước khi đi tìm trầm, người đi địu phải dâng lễ cầu khấn Bà.
Theo các tài liệu khoa học, chỉ có cây dó bầu mới tạo ra trầm hương, kỳ nam. Mà hàng triệu cây dó bầu mới có một cây tạo được trầm, kỳ. Quá trình tạo trầm, kỳ phải mất hàng trăm năm. Cho nên quý, hiếm vô ngần. Có điều, quý như vàng thì có khung, biểu giá hẳn hoi, còn trầm, kỳ thì không có giá cụ thể. Giá do người mua quyết định. Một ký kỳ nam có thể có giá hàng chục tỷ đồng. Tại Việt Nam, những nơi có núi cao, rừng rậm như Phú Yên, Bình Định, Quảng Nam… đều có trầm hương nhưng không đâu nhiều và thơm như Khánh Hòa. Cho nên hễ nói đến trầm, kỳ là nói đến Khánh Hòa, mà Khánh Hòa nhiều nhất là Ninh Hòa và Vạn Ninh.
Đã từ lâu lắm, trong dân gian lưu truyền câu hát:
Khánh Hòa là Xứ Trầm hương
Non cao biển rộng, người thương đi về...
Núi non Khánh Hòa có rất nhiều loại cây dó, trong đó có dó bầu, một loại cây tạo ra trầm hương, kỳ nam. Trầm, kỳ là sản vật vô cùng quý giá, là tinh túy đất trời kết tụ trong cây qua bao nhiêu năm tháng, nắng mưa. Với nhiều công dụng hết sức có lợi cho sức khỏe về thể chất và tinh thần, xưa nay, trầm, kỳ được con người sử dụng làm dược liệu, hương liệu một cách hiệu quả. Theo giới chuyên môn, trầm, kỳ ở Khánh Hòa có chất lượng cao, cho nên có giá rất cao. Mới đây, ở huyện Vạn Ninh, một nhóm người tìm trầm trúng được 26kg kỳ nam (loại một), lúc đầu đem về bán 1,1 tỷ đồng/kg, sau đó tăng lên trên 1,4 tỷ đồng/kg, rồi tới hơn 2 tỷ đồng/kg. Nhiều người nói trầm, kỳ Khánh Hòa còn quý hơn, đắt hơn cả bạc vàng, quả không ngoa.
Có lẽ, chính cái sự quý giá ấy đã khiến không biết bao nhiêu người khăn gói lặn lội vào tận chốn rừng thiêng nước độc để tìm trầm; thêu dệt nên bao nhiêu câu chuyện kỳ bí về một loài cây trứ danh cũng như về những con người dám đặt cược mạng sống của mình cho canh bạc đổi đời, tìm lấy giàu sang. Dân gian gọi họ là những người đi địu. Họ đi tìm những cây dó. Cây dó sống trên núi cao, rừng sâu. Cho nên công việc tìm cây dó để lấy trầm, kỳ của những người đi dịu là vô cùng gian khó và nguy hiểm. Đã có không ít người trong số họ đành vĩnh viễn gác lại giấc mộng trầm hương mà gửi lại nắm xương tàn trong rừng thẳm; bởi bệnh tật, bởi thú dữ và vô vàn những rủi ro, bất trắc vây quanh. Bởi vậy mới có câu chuyện ngậm ngải tìm trầm đầy bí ẩn, huyền hoặc. Ngậm ngải, theo những người đi địu, con người được tiếp thêm nhiều sức mạnh, cả thể chất lẫn tinh thần và sự may mắn. Nhưng, nếu trễ hạn, không về nhả ngải kịp thời, người ngậm ngải bỗng dưng lông lá mọc đầy mình, rồi lại có thêm nanh, thêm vuốt mà biến thành hổ, có người còn gọi đó là con hà niên. Lốt hổ, hà niên, nhưng tâm, trí vẫn là người. Chuyện kể rằng, chiều chiều, nhớ nhà, hổ tìm đường trở về làng cũ, nhìn vợ, nhìn con, ứa nước mắt rồi lầm lũi quay về chốn thâm sơn vốn chẳng phải của mình. Vợ, con vẫn nhận ra đó là chồng, là cha mình, nhưng đành nuốt nước mắt chia xa, bởi ông đã thuộc về một thế giới khác.
Hiểm nguy là như vậy, bi kịch là như vậy, nhưng trầm hương, kỳ nam vẫn có sức cuốn hút đến lạ lùng. Nhiều dân địu cứ miệt mài theo đuổi một ước vọng chiếm hữu báu vật của rừng xanh, bất chấp gian nguy, bất chấp điều nghiệt ngã là không phải bất cứ ai đi tìm cũng thấy được trầm, kỳ. Và bước chân của đội quân tìm trầm, lớp sau tiếp lớp trước, đã giẫm nát núi rừng, không chừa một chỗ nào, từ gành đá cheo leo cho đến vực sâu hun hút. Những cây dó bầu xấu số lọt vào mắt họ đều bị đốn hạ; bị băm nát ra để tìm trầm, kỳ. Cho đến nay, trên rừng núi Khánh Hòa, cây dó bầu tự nhiên gần như không còn nữa. Chúng đã bị tuyệt diệt. Có phải bởi vậy chăng mà trầm hương, kỳ nam ngày mỗi một thêm đắt giá? Có phải bởi vậy chăng mà cuộc tìm kiếm trầm, kỳ mỗi lúc một trở nên khốc liệt?
Nhiều nhà khoa học đã dày công nghiên cứu và khẳng định có thể trồng và cấy tạo, khai thác trầm, kỳ trên cây dó bầu. Những năm 1986-1987, tỉnh Khánh Hòa xây dựng một số chương trình, đề tài nghiên cứu, điều tra phân bố trầm, kỳ; nghiên cứu trồng thử nghiệm và tạo trầm, kỳ trên cây dó bầu. Một số hộ dân, doanh nghiệp cũng đã bắt đầu trồng thử nghiệm loại cây này. Năm 2002, toàn tỉnh có 125ha dó bầu, đến năm 2005, diện tích có khoảng gần 400ha. Xác định phát triển, nghiên cứu tạo trầm, kỳ trên cây dó bầu sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao, bảo đảm nguồn cung cấp ổn định sản phẩm trầm hương, kỳ nam cho thị trường trong nước và xuất khẩu, năm 2005, Tỉnh ủy Khánh Hòa có chủ trương và cụ thể hóa bằng một chỉ thị đẩy mạnh phong trào khôi phục, phát triển cây dó bầu tạo trầm, kỳ tại Khánh Hòa. Theo đó, các địa phương phát động trong nhân dân phong trào tận dụng các loại đất trồng cây dó bầu; tỉnh xây dựng chủ trương, chính sách hỗ trợ giống, kỹ thuật trồng, giao đất và quy hoạch sử dụng đất phục vụ tốt cho phát triển cây dó bầu, đặc biệt quan tâm hai huyện miền núi Khánh Sơn và Khánh Vĩnh. Nghe chuyện có nhiều người làm giàu từ cây dó và được sự hỗ trợ nói trên, người dân không chỉ ở Khánh Sơn, Khánh Vĩnh mà cả ở những huyện đồng bằng như Vạn Ninh, Ninh Hòa, thị xã Cam Ranh... rất hăng hái trồng cây dó bầu. Dó đứng khắp trên nương rẫy. Dó xếp hàng quanh vườn nhà. Và câu chuyện về một ngày mai, nghe cứ thật gần, gần lắm, rằng người dân rồi sẽ hái được trầm hương, kỳ nam ngay trong vườn nhà mình, chẳng phải lặn lội đi đâu xa, chẳng phải ngậm ngải tìm trầm nơi thâm sơn, cùng cốc một mất một còn đầy nghiệt ngã.
Hỏi thăm mãi, tôi mới tìm được vườn trồng cây dó bầu của anh Văn Tấn Việt, ở thôn A Xay, xã Khánh Nam, huyện Khánh Vĩnh. Anh bắt đầu trồng dó bầu trong vườn nhà mình từ năm 2003. Nhiều cây trong số đó đã bắt đầu có dấu hiệu làm trầm, sau khi anh nhờ người sử dụng các biện pháp kỹ thuật cấy, tạo trầm. Anh Văn Tấn Việt cho biết, cây dó bầu trồng dễ sống, phát triển rất tốt, nhưng phải canh chừng cẩn thận, nếu để sâu ăn trụi lá, cây sẽ chết. Hiện nay, anh có khoảng gần năm nghìn cây dó bầu. Và anh được coi là một trong số rất ít những người bền gan, quyết chí theo đuổi cây dó bầu ở huyện Khánh Vĩnh. Nói vậy bởi vì hiện nay, người dân không trồng nhiều dó bầu như trước nữa.
Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Khánh Vĩnh Lê Văn Hoa trầm ngâm:
- Trên địa bàn huyện hiện có khoảng 20ha cây dó bầu. Có một số doanh nghiệp đang lên đây giúp dân kỹ thuật tạo trầm, nhưng hiệu quả chưa được rõ nét cho lắm. Nhiều người dân nôn nóng vạt cây ra thử, nhưng trầm hãy còn rất non, chưa thể xếp vào loại nào được, chưa có giá trị nên chưa bán được. Có lẽ, do chưa thấy được lợi ích kinh tế cụ thể mang lại từ cây dó bầu nên người dân ngại trồng, không còn hăng hái như trước nữa. Có một số hộ trồng tập trung, lúc đầu chăm sóc chu đáo nên cây phát triển rất tốt, sau đó bỏ bê, cây bị sâu phá hoại, tàn lụi dần. Diện tích trồng cây dó bầu của Khánh Vĩnh vài năm trở lại đây không tăng mà đang có chiều hướng giảm mạnh.
Chiều. Bóng núi đổ dài xuống những khu vườn dó, nhuộm một màu tím sẫm rồi dần chìm vào đêm. Câu chuyện về cây dó bầu bên bếp lửa nghe như một dạ khúc buồn, thật buồn. Người dân ở đây hãy còn kham khổ quá. Ăn chưa no. Mặc chưa ấm. Có chút vốn còm cõi tích cóp đem ươm vào cây dó, những mong gửi gắm ước mơ đổi đời, bởi, nghe chuyện, chỉ cần vài cây dó có trầm, kỳ là trong tay đã có tiền trăm triệu, thậm chí cả tiền tỷ. Bây giờ, cây dó vẫn lên xanh ngoài kia. Nhưng hương trầm, hương kỳ hãy cứ còn lãng đãng ở tận đâu đó trong vô cùng trời đất thênh thang. Tôi nghe một ai đó thở dài:
Mai không còn gạo nấu...
Câu chuyện ở huyện miền núi Khánh Sơn cũng tương tự. Trưởng phòng Kinh tế Khánh Sơn Nguyễn Trọng Lâm cũng trầm ngâm chẳng khác gì Phó Chủ tịch Lê Văn Hoa ở Khánh Vĩnh:
- Trước đây, người dân Khánh Sơn đua nhau trồng cây dó bầu. Năm 2005, Khánh Sơn trồng 46 nghìn cây dó bầu, sang năm 2006 trồng đến trên 70 nghìn cây. Nhưng đến năm 2007 chỉ còn 11 nghìn cây, và từ năm 2008 đến nay, bà con ở đây không trồng thêm cây dó bầu nữa, mặc dù nhà nước đã hỗ trợ đến 80% tiền mua giống cây cho người dân.
Được hỏi về chuyện trồng cây dó bầu, nhiều người dân ở Khánh Sơn bảo rằng, trong tự nhiên, không ai biết được cây dó bầu tạo được trầm, kỳ trong khoảng thời gian bao lâu. Vài năm, vài chục năm hay vài trăm năm? Cho nên trồng dó không biết bao giờ mới thu hoạch được. Mà trước mắt, người dân cần có thu nhập để ổn định cuộc sống. Đất đai, khí hậu ở Khánh Sơn rất thích hợp với cây dó bầu. Cây lớn rất nhanh. Nhưng, đến nay, toàn huyện Khánh Sơn chỉ còn khoảng trên 20ha cây dó bầu, mất đi hơn phân nửa diện tích so với năm 2007. Nguyên nhân giảm diện tích là do một số lớn cây không được chăm sóc, bị sâu bệnh chết, một số khác bị chặt bỏ. Nhiều người dân đã trồng thành vườn dó bầu rồi bây giờ lại cứ băn khoăn về chuyện giữ hay là không giữ cây dó bầu. Bỏ thì thương. Vương thì tội. Tiếp tục đầu tư chăm sóc thì tốn thêm tiền, tốn thêm công, trong khi diện tích ấy chưa cho một khoản thu nhập nào để người trồng dó có chi phí cho cuộc sống hàng ngày.
Trong câu chuyện cùng chúng tôi, nhiều người dân đặt câu hỏi thẳng thắn rằng liệu có thể tạo được trầm, kỳ thương phẩm trên cây dó bầu hay không, và nếu được thì trong thời gian bao nhiêu năm. Đem câu hỏi này trao đổi với lãnh đạo các địa phương trồng nhiều dó bầu, chúng tôi nhận được những câu trả lời gần giống như nhau. Đó là rất lúng túng trong việc vận động nhân dân trồng dó bầu. Bởi kết quả cụ thể chưa thấy rõ, trong khi người dân lại không đủ sức để theo cây dó bầu một cách dài hơi cho đến ngày thành quả.
Chúng tôi quyết tâm tìm đến một địa chỉ được nhắc tới nhiều như một điển hình của việc trồng cây dó bầu. Từ xã Đại Lãnh, huyện Vạn Ninh lên vùng núi Sơn Tập mất gần hai tiếng rưỡi đi bộ. Đường lâm nghiệp lâu ngày không được sửa chữa nên rất khó đi. Lên đến độ cao gần 600 mét so với mặt biển, không khí mát mẻ, dễ chịu khiến mọi người đỡ mệt. Giám đốc Ban Quản lý rừng phòng hộ Vạn Ninh Trần Nhiều vừa quệt mồ hôi vừa kể:
- Ở vùng đất Sơn Tập này, năm 1987, Lâm trường Vạn Ninh trồng 5,7ha dó bầu. Sau đó vài năm, trồng tiếp thêm 51ha nữa. Từ đó đến nay, lâm trường không tổ chức trồng thêm nữa, mặc dù đất ở đây được quy hoạch có thể trồng đến 800ha. Nguyên nhân do thiếu vốn đầu tư. Ở những cây dó bầu trồng trước, lâm trường đã sử dụng kỹ thuật tác nhân vi sinh để tạo trầm. Bước đầu, thấy có dấu hiệu cây làm trầm, nhưng chuyển biến rất chậm, hầu như rất khó thấy. Hiện nay, cây ở đây không đòi hỏi phải chăm sóc tỉ mỉ nữa, nhưng phải bố trí cán bộ bảo vệ nghiêm ngặt, do vậy chi phí khá tốn kém. Anh thấy đó, diện tích gần 60ha này đã được chăm sóc ròng rã trên hai chục năm nay mà chưa hề thu hoạch được gì, mà vẫn cứ phải tiếp tục đầu tư.
Anh Trần Nhiều cho biết thêm, từ đầu năm 2001, Lâm trường được đưa về Ban Quản lý rừng phòng hộ. Hiện không trồng thêm nữa, nhưng Ban Quản lý vẫn không đủ khả năng về tài chính để thực hiện các biện pháp kỹ thuật tạo trầm trên diện tích cây dó đã trồng. Mà ngặt nỗi là có trồng dó tốt bao nhiêu nhưng không tiến hành khâu này thì không thể có sản phẩm trầm, kỳ được. Vì vậy, Ban Quản lý rừng phòng hộ Vạn Ninh đang kêu gọi các đối tác cùng hợp tác đầu tư trong khâu cấy tạo và khai thác trầm, kỳ trên diện tích nói trên. Nhưng, kêu gọi, rồi cứ chờ, chờ mãi...
Chủ tịch Chi hội Trầm hương Khánh Hòa Trần Vũ là người có hàng chục năm gắn bó với huyện miền núi Khánh Sơn từ những ngày gian khó và là người mê cây dó bầu. Hỏi thăm tình hình, anh cho biết:
- Từ năm 2006, việc trồng cây dó bầu trên địa bàn tỉnh bắt đầu chững lại. Thời gian gần đây, số lượng cây trồng gần như không đáng kể. Người dân ở hai huyện miền núi Khánh Sơn và Khánh Vĩnh chưa thật sự mặn mà lắm với loài cây này. Cây giống được đưa lên, Nhà nước trợ giá đến 80% mà vẫn rất ít người trồng. Nhiều hộ trước lỡ trồng, nay không ngó ngàng gì đến nữa, cây chết lúc nào cũng chẳng hay. Ở các vùng đồng bằng, bà con cũng ít trồng hơn trước. Hiện nay, ở một số hộ dân qua xử lý thấy cây có hiện tượng làm trầm, nhưng đây mới chỉ là bước đầu hình thành, trầm chỉ được xếp ở loại thấp nhất, giá trị không cao. Do đó, người trồng dó bầu cần xác định phải tiếp tục chăm sóc cây trong khoảng thời gian dài. Ở đây, có điều khó khăn là tuy cây dó bầu đã được đưa vào cơ cấu cây trồng lâm nghiệp nhưng việc triển khai lấy ngắn nuôi dài, trồng xen với các loại cây khác còn nhiều khó khăn, người dân còn rất lúng túng.
Từ những kết quả nghiên cứu, thử nghiệm, các nhà khoa học khẳng định việc trồng, gây tạo và thu hoạch trầm hương, kỳ nam trên cây dó bầu là khả thi, mở ra hướng mới trong phát triển chương trình vườn rừng, vườn nhà và trang trại với phương thức đưa cây dó bầu vào trồng thuần hay nông lâm kết hợp ở những vùng có điều kiện tự nhiên phù hợp. Do vậy, tỉnh Khánh Hòa cần sớm tổ chức thống kê, nắm bắt tình hình để có đánh giá thật cụ thể, thật khoa học diễn tiến cũng như kết quả trồng, tạo trầm trên cây dó bầu. Từ đó, xác định hướng đi trong thời gian tới cũng như xây dựng hệ thống chính sách phù hợp; có giải pháp kỹ thuật cụ thể giúp người dân và các tổ chức, doanh nghiệp phát triển cây dó bầu một cách hiệu quả.
Có người ví cây dó bầu cho trầm, kỳ giống như con trai tạo ngọc. Cây dó bầu lành lặn không tạo được trầm hương, kỳ nam. Cũng như con trai lành lặn chẳng thể dâng hiến cho đời những chuỗi hạt ngọc lóng lánh. Đó là cả một cơ duyên, một quá trình, một thời gian dài kết tụ tinh túy của đất, của trời. Trong số những người trồng cây dó bầu ở Khánh Hòa, nhiều người đã thực sự bỏ cuộc; số còn lại gắng cầm cự mà kiên nhẫn đợi chờ, chờ một ngày cây tỏa hương thơm, trong cả niềm hy vọng lẫn thấp thỏm âu lo.
Chờ, nhưng không biết đến bao giờ. Hương trầm vẫn cứ thoảng bay, trong gió.
Nha Trang, tháng 11 năm 2009