Chiều.
Nắng ươm vàng trên dòng sông mơ màng. Mấy rặng tre trĩu ngọn la đà trên sông nước. Sông Cái Nha Trang lặng lẽ uốn mình giữa đôi bờ trù phú ruộng đồng, làng mạc. Chúng tôi xuôi ghe từ cầu Vĩnh Phương ra cửa biển. Hoàng hôn gieo xuống. Nước sông như đen hơn, đầy bí hiểm. Trước mặt, đã thấy núi Cù Lao và Tháp Bà Ponagar in bóng trên sóng nước lung linh, huyền hoặc. Bóng núi uy nghi. Dáng tháp trầm mặc. Dường như khung cảnh đã chạm tới một nỗi niềm sâu xa nào đó, anh Nguyễn Tứ Hải, Phó Giám đốc Nhà hát Nghệ thuật truyền thống tỉnh Khánh Hòa, người rất tâm huyết trong công việc nghiên cứu văn hóa dân gian Khánh Hòa cất tiếng hát:
Ai về Xóm Bóng thăm nhà
Hỏi xem, điệu múa dâng Bà còn chăng? Thế thường tre lụn còn măng
Phải đâu tham đó, bỏ đăng cho đành...
Một người bạn chợt hỏi:
- Xóm Bóng ở đâu, và có liên quan gì tới điệu múa dâng Bà? Mà Bà ở đây là ai vậy?
Anh Hải thôi hát. Một câu hỏi cứ ngỡ bâng quơ, mà hàm chứa bao nhiêu câu chuyện, cũ có, mới có, về một vùng đất, về một dáng nét văn hóa độc đáo của cả người Chăm lẫn người Việt ở vùng đất này. Chúng tôi thả ghe trôi, thật chậm. Nước triều sắp lên. Chốc nữa, ghe chúng tôi không ra cửa biển mà sẽ đứng yên hoặc trôi nhẹ về phía thượng nguồn, do triều lên. Câu chuyện về xứ sở, về một vùng đất đượm màu huyền thoại của cả cộng đồng dân cư nơi này khiến không khí trầm hẳn lại. Hàng trăm năm nay, tâm thức người dân Nha Trang - Khánh Hòa vẫn cứ như tinh khôi những dòng chảy văn hóa lịch sử, tâm linh mà làm nên dáng nét, phong cách rất riêng của mình. Trong đó có sự giao thoa, tiếp biến văn hóa Việt - Chăm rất độc đáo.
Câu chuyện tên gọi Nha Trang cũng là một trong những ví dụ sinh động về sự giao thoa, tiếp biến văn hóa Việt - Chăm ấy. Cho tới bây giờ, nhiều người vẫn cứ ngâm ngợi mấy câu thơ cổ về một dòng sông:
Lưỡng ngạn vi lô trường đáo hải Tứ biên hoàng diệp dục vi thu Tạm dịch:
Đôi bờ lau sậy vươn tới biển
Bốn bề lá úa gọi thu sang
Người Chăm gọi con sông ấy là Yjatran, có nghĩa là dòng sông có nhiều lau lách. Người Việt, theo cách phát âm ấy, gọi luôn là sông Cái Nha Trang. Rồi, tên gọi ấy được định danh cho thành phố có dòng sông Cái đi qua: Nha Trang. Bây giờ, Nha Trang đã là một tên gọi chính thức của một thành phố thơ mộng. Ôi, sông Cái Nha Trang, dòng sông gắn cùng tuổi thơ tôi trong trẻo và dịu mát! Lớn lên một chút, đọc thơ Chế Lan Viên, tôi như thấy có hình bóng mảnh đất Nha Trang của mình:
Đây, điện các huy hoàng trong ánh nắng Những đền đài tuyệt mỹ dưới trời xanh Đây, chiến thuyền nằm mơ trên sông lặng Bầy voi thiêng trầm mặc dạo bên thành (Chế Lan Viên - Trên đường về)
Tín ngưỡng thờ Mẹ xứ sở của người Chăm và tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở đây có sự giao thoa, tiếp biến mà tạo nên hình tượng Bà, vừa thiêng liêng, vừa gần gũi. Bà hết mực thương yêu, bảo bọc dân lành. Bà dang tay ngăn chắn thiên tai, bom đạn. Người dân ở đây thờ Bà nghiêm cẩn lắm. Và những lúc bất an, những khi hoạn nạn, họ luôn đến nhờ Bà giúp đỡ. Thiêng lắm!
Nha Trang, bây giờ, trên đồi Cù Lao, trải bao mưa nắng, thời gian, Tháp Bà Ponagar vẫn đứng uy nghi, đầy trắc ẩn. Đây là một trong những lưu tích quan trọng của tiểu quốc Kauthara, thuộc Chămpa ngày nào. Như trên đã nói, Bà là hiện thân Mẹ xứ sở của người Chăm, tựa như Mẫu của người Việt. Bà là Mẹ của muôn dân nơi này. Chuyện kể rằng, những ngày chiến tranh, bom đạn giặc điên cuồng trút xuống, nhưng Bà dang tay đỡ, không cho rơi vào nhà dân, vào tháp. Hàng năm, Bà ngăn che, không cho bão lớn đổ bộ vào đất liền làm hại người dân. Nhân câu chuyện này, tôi đùa mà rằng, có lẽ xuất phát từ tâm lý này mà ngày nay người dân Nha Trang - Khánh Hòa rất chủ quan, rất thờ ơ với... bão. Họ cứ bảo đã có Bà đỡ, không phải lo lắng, phòng bị gì. Mà kỳ thực, đã có nhiều cơn bão có cấp độ cao được dự báo đổ bộ trực tiếp vào Nha Trang - Khánh Hòa nhưng giờ chót lại chuyển hướng đi nơi khác. Nha Trang bình yên vô sự. Cho nên, bây giờ nghe dự báo thời tiết có bão đổ bộ, người dân ở đây không những không lo ứng phó mà còn kéo nhau ra biển để... ngắm bão!
Theo Trung tâm Bảo tồn di tích tỉnh Khánh Hòa, Lễ hội Tháp Bà Ponagar hàng năm diễn ra từ ngày hai mươi đến hăm ba tháng Ba Âm lịch. Các hoạt động chính diễn ra trong lễ hội gồm: lễ thay y; lễ thả hoa đăng; lễ cầu quốc thái dân an; múa bóng, hát văn... Đây là biểu tượng của tinh thần đoàn kết dân tộc, góp phần làm nên các yếu tố cố kết cộng đồng của các dân tộc trên dải đất miền Trung. Lễ hội đã trở thành nơi tụ hội của các tộc người Kinh, Chăm, Raglai và nhiều cộng đồng tộc người khác ở miền Trung và Tây nguyên. Hiện nay, mỗi năm có tới hàng trăm nghìn người từ khắp mọi miền Tổ quốc về đây dự lễ, dâng hương. Có điều thú vị là, tại Tháp Bà, có gần một trăm bộ áo dài bằng vải lam được chuẩn bị sẵn để những người mặc đồ ngắn, hở hang, phản cảm có thể mượn mặc khi vào trong chánh điện. Âu cũng là một cách nhắc nhở rất tế nhị và sâu sắc. Được coi là lễ hội văn hóa dân gian lớn nhất ở Khánh Hòa, năm 2012, lễ hội Tháp Bà được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia.
Thêm một chút rượu cho vừa tình sông nước, và đang tâm đắc với câu chuyện về điệu múa dâng Bà, anh Nguyễn Tứ Hải khẳng định, múa bóng là một trong những nét đặc sắc của lễ hội Tháp Bà. Ông dẫn lời thi sĩ Quách Tấn, trong cuốn sách Xứ Trầm hương nổi tiếng:
Người múa toàn là con gái. Áo xiêm rực rỡ; đầu đội, người cỗ hoa tươi, kẻ đèn lồng ngũ sắc. Đèn và hoa chồng cao như ngọn tháp. Vũ nữ múa theo điệu đàn điệu trống, nhịp nhàng dưới ánh đuốc, ánh đèn lừng lẫy. Họ múa rất khéo và rất tài. Chẳng những đôi tay đôi chân luôn luôn cử động, vừa dẻo vừa mềm, mà đầu và thân cũng luôn luôn ngửa nghiêng uốn éo theo bước chân nhịp tay, rộn ràng đều đặn. Thế mà đèn và hoa đội trên đầu, không vịn không đỡ mà vẫn không hề lay không hề dịch, dường như có những bàn tay vô hình nâng đỡ. Cảnh tượng vô cùng ngoạn mục.
Đối với người Chăm, nước và mâm lễ vật luôn là những thứ trân quý, linh thiêng, luôn cần sự trong sạch, tinh khiết cho nên họ để trên vị trí cao nhất của cơ thể con người. Đây là tập quán, nghi thức mang đậm dấu ấn văn hóa Chăm. Tại các lễ hội, trong điệu múa dâng lễ vật lên các vị thần linh, vũ nữ Chăm đội trên đầu những hoa trái để cung kính dâng cúng. Đến khi nghi lễ diễn ra ban đêm, giữa các đồ vật đội trên đầu còn có gắn thêm một cây nến lớn lung linh, huyền ảo, theo bước chân phiêu linh của vũ nữ mà vẽ nên nét liêu trai, huyền bí của lễ hội.
Cũng theo anh Nguyễn Tứ Hải, múa bóng là loại hình nghệ thuật dân gian gắn liền với tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt. Tín ngưỡng này, khi đến vùng đất Khánh Hòa đã có sự giao thoa với tín ngưỡng thờ Mẹ xứ sở của người Chăm. Sự giao thoa đó chính là nét đồng điệu trong tâm hồn giữa người Việt và người Chăm, từ đó tạo nên sự đồng điệu trong âm nhạc, vũ đạo, văn hóa. Múa bóng là một trong những hình thức nghệ thuật thể hiện sự tôn vinh, thành tâm của người dân đối với ân đức, công lao của Mẫu. Điều này lý giải vì sao nghệ thuật múa bóng được cả người Việt lẫn người Chăm quan tâm tập luyện và biểu diễn.
Ngay dưới chân ngọn tháp Ponagar có một cộng đồng người dân chuyên làm nghề múa bóng, cho nên mới gọi là Xóm Bóng. Ngày nay, vẫn còn một số ít người làm nghề này. Tôi đã nhiều lần xem chính những người dân ở Xóm Bóng biểu diễn múa bóng ở lễ hội. Những cô gái tuổi trăng tròn thướt tha trong xống áo, chân vờn theo nhịp phách sáo trúc, song loan. Lời ca mông lung mây trời, mênh mang sóng nước. Những đôi tay uyển chuyển như gấm vóc, lụa là. Và những bước chân phiêu bồng, quấn quýt. Thần thái liêu trai. Đầy mộng mị. Và mê hoặc.
Trải đã mấy trăm năm, người dân Xóm Bóng, một số ở đồi Cù Lao, một số lênh đênh trên thuyền đánh cá đã cùng nhau múa bóng. Múa bóng để dâng Bà. Và múa bóng cũng để giãi bày những tâm tư, tình cảm của mình đối với Mẫu, đối với quê hương, đất nước. Chính những điệu múa bóng, chính những người múa bóng ấy đã định danh cho một Xóm Bóng bây giờ, ngay dưới chân đồi Cù Lao, tháp Thiên Y A Na Thánh Mẫu. Trong cuốn Xứ Trầm Hương, thi sĩ Quách Tấn lý giải: Sở dĩ có tên Xóm Bóng là xưa kia vào ngày lễ vía Bà thường tổ chức những buổi múa bóng do người trong xóm phía dưới chân Tháp Bà phụ trách. Những vũ nữ phần nhiều là người trong xóm. Trường dạy múa cũng ở trong xóm. Cho nên xóm được mệnh danh là Xóm Bóng, thuộc làng Cù Lao.
Ngay sát đồi Cù Lao, có một cây cầu được gọi là cầu Xóm Bóng. Cầu do người Pháp xây dựng vào những năm 1925, có chiều dài trên ba trăm mét. Đứng ở cầu Xóm Bóng, ngước ống kính tôn vinh, Tháp Bà trong khung ảnh đẹp cổ kính, uy nghi. Còn đứng trên Tháp Bà, hướng nhìn xuống cầu Xóm Bóng, hiện ra một bức tranh sơn thủy hữu tình. Chuyện kể rằng, thời chiến tranh, nhằm cắt đứt giao thông liên lạc ra vào thành phố Nha Trang, giặc điên cuồng ném bom hòng phá sập cầu Xóm Bóng. Bom rơi như vãi trấu, nhưng không trúng cầu. Cứ vậy, trải qua bao đạn bom, mưa nắng, cầu Xóm Bóng vẫn cứ lừng lững đứng đó, cùng non nước hôm nay. Người dân ở đây bảo: nhờ có Bà đỡ cho.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Tứ Hải, ước tính trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa hiện có khoảng năm mươi đoàn múa bóng, với khoảng một nghìn người. Số lượng như vậy là không ít. Tuy nhiên, tính độc đáo như xưa của múa bóng đã giảm nhiều; số nghệ sĩ giỏi cũng ngày càng ít. Đến thời điểm này, số người thực sự nắm được những điểm cốt yếu của nghệ thuật múa bóng trên toàn tỉnh chỉ còn đếm trên đầu ngón tay. Mà tất cả họ nay tuổi đã cao, sức đã kiệt. Cho nên, theo anh Nguyễn Tứ Hải, cần sớm có giải pháp sưu tầm, lưu trữ những vốn hiểu biết, kỹ năng múa bóng của lớp nghệ sĩ lớn tuổi mà lưu truyền cho hậu thế.
- Để hoạt động múa bóng lành mạnh theo đúng nghĩa của một loại hình nghệ thuật, tỉnh Khánh Hòa cần có biện pháp hạn chế tối đa hoạt động của các đoàn múa bóng tự phát. Bởi họ múa không đúng, không bài bản. Cạnh đó, nên thành lập các câu lạc bộ hát chầu văn, múa bóng hoạt động có tổ chức chặt chẽ, có nghiệp vụ tốt, góp phần bảo tồn Di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia Lễ hội Tháp Bà.
Anh Nguyễn Tứ Hải chia sẻ.
Múa bóng vẫn cứ diễn ra, trong lễ hội, cũng như trên các sân khấu du lịch. Nhưng nghe sao cứ thấy ngậm ngùi. Rồi hồn vía múa bóng sẽ ra sao khi lớp người am tường sẽ khuất? Và, đâu đó, có những đội múa bóng chưa đạt yêu cầu về nhiều mặt vẫn cứ hát, cứ múa theo cách làm dịch vụ. Mà cứ như vậy, hồn cốt của múa bóng sẽ không còn như xưa nữa.
Cho nên, câu hát nghe cứ trĩu nặng ưu tư:
Thế thường tre lụn còn măng
Mà sao:
Tham đó, bỏ đăng...
Nha Trang, tháng 3 năm 2019