Thưa bạn đọc, thoạt đầu tôi lấy nhan đề bài viết nhỏ này là Chào mừng. Nhưng e rồi lại bị phê bình là không thể hiện được tinh thần… hội nhập quốc tế… Cho nên mới dùng Welcome.
Sao lại là Welcome? Sính ngoại à? Không! Câu chuyện bắt đầu bằng những dòng cảm xúc từ tháng Mười một, của một APEC làm cho gương mặt đất nước càng thêm muôn phần rạng rỡ. Tháng Mười một. Hà Nội. Tôi đi khắp các nẻo phố, tên đường, từ Hoàn Kiếm, Cầu Giấy cho tới Thanh Xuân, Tây Hồ… đâu đâu cũng thấy rực rỡ những cờ hoa, và cơ man nào là Welcome to APEC Việt Nam 2006! Thành phố Hồ Chí Minh cũng vậy. Và ngay cả ở thành phố Nha Trang chúng ta, nơi không trực tiếp diễn ra các hoạt động APEC, cũng thấy rất rộn ràng những Welcome! Nhiệt thành và cảm động. Thật lòng, lần đầu tiên tôi cảm thấy thích từ này. Bởi ở đây, lần này, nó mang một ý nghĩa thật đặc biệt, thật sâu sắc. Hoan nghênh! Chào mừng! Người Việt Nam rất mực chào mừng! Đất nước Việt Nam rất mực chào mừng! Chào mừng một vận hội mới. Tự tin và kiêu hãnh.
Những ngày vui ấy, trên từng mặt người, thoáng thấy có dáng nét vừa như quen, vừa như lạ. Quen, bởi đã từng đi lướt qua nhau, đã từng chào nhau trong những buổi tan tầm hít đầy khói bụi; khi gặp, chào những người thân khăn trùm kín mặt, chỉ còn thấy có mỗi đôi mắt. Lạ, bởi dường như phố xá đi đứng đã để mắt nhìn trước ngó sau, ra chiều ý tứ hơn thường nhật. Nhà có khách có khác. Chủ nhà Việt Nam đã làm một công cuộc dọn mình, để tiếp khách cho thật đường hoàng; và cũng để sẵn sàng đón nhận những bông hoa tươi mới được mang đến từ nhiều nền kinh tế, văn hóa khác nhau trên địa cầu. Tôi gọi đó là một công cuộc. Có quá không? Đứa bé thường hay đánh giày mỗi sớm cho tôi trên đường Nguyễn Thiện Thuật, Nha Trang dường như đã cố mặc chiếc áo đẹp hơn một chút khi ra đường. Mọi khi, ngồi ở quán cà-phê cóc, nó bày đôi giày tôi ra ngay trên lề đường để tác nghiệp. Hôm ấy, không như vậy, nó đem lùi khuất ra sau một gốc cây bàng cổ thụ. Tôi hiểu ý tứ nó. Và cũng biết rằng, đường phố đã đẹp hơn, nó trông có vẻ lịch hơn, dẫu bữa cơm trưa nay của nó ở một góc quán nhỏ bên đường vẫn chưa có gì khác biệt so với bình thường. Nhưng, nó vẫn cố lịch, một cách tự nguyện.
Bạn tôi mời đi nhậu. Quán bên sông. Gió đồng lên ngọt lịm. Bạn bảo:
- Ông đi chợ đi! Tôi gọi:
- Cá rô nướng, mắm ngò! Bạn tôi phì cười:
- Cái ông này đến lạ! Lâu ngày, tôi đãi. Cứ vô tư đi!
Ừ, thì phải vô tư lắm, phải người nhà lắm tôi mới gọi món ấy. Tôi thích cá rô thóc con nhỏ bằng ngón tay út, nướng lửa than lên đậm mùi rạ rơm, đồng nội. Và mắm ngò rí thơm thật dịu dàng. Tất nhiên là rượu cuốc lủi, chai nút lá chuối. Ngồi bàn bên cạnh là mấy người khách nước ngoài. Cô bạn tôi nhanh nhảu làm quen. Và, thật lạ, câu chuyện về nước mắm không biết đã thành một chiếc cầu nối tự lúc nào. Những người nước ngoài nói rằng, lúc đầu mới nghe cách làm nước mắm của ta, họ sợ lắm. Ai đời cá sống mà chẳng nấu nướng gì, cứ cho muối vào, đem ủ rồi mang ra chấm. Nhưng khi nghe kỹ ra, ăn thử thấy được, rồi dần dà đâm thích. Mấy người bạn tôi thường tiếp khách Tây (người mình có thói quen cứ gọi khách nước ngoài là… Tây, bất luận đến từ quốc gia nào) khoe: Nhiều ông Tây đã biết ăn mắm nêm rồi đó! Còn nếu đi nhậu thịt chó hoặc lòng lợn thì các ông còn quất được tới cả… mắm tôm nữa! Hay quá! Có vậy mới được! Nói đến đây, bạn tôi vỗ đùi cười một cách khoái trá. Ông bảo người Việt mình có vô khối cái hay mà người nước ngoài khi biết được, dùng được cũng… say như điếu đổ. Lại nữa, bạn hỏi:
Điếu đổ là gì?
Và say như điếu đổ là say ra làm sao?
Ô hay! Người Việt Nam mình nhiều bí ẩn vậy chăng? Cho nên có nhiều sức cuốn hút như vậy chăng?
Ngày trước, quê tôi có những gia đình đông con, mùa mưa lạnh chỉ có mỗi một nồi cơm trộn khoai mì (khoai mì nhiều hơn cơm) và một nồi canh rau trai nấu rặt với mắm nêm. Xin đừng hỏi mắm nêm là mắm gì, và rau trai là rau gì. Còn thứ canh ấy, theo sách vở tôi học, gọi là canh suông, bởi chẳng có thịt cá gì. Canh suông, nhưng bà mẹ ngồi nhìn đàn con cứ xúm xít, ngấu nghiến mà nghe lòng như xát muối, chốc chốc lại quay mặt đi nơi khác, cố giấu những giọt nước mắt thương cảm. Mà có được vậy mãi đâu, có những bữa không có cả rau trai, chỉ có mỗi một nồi cơm và một chén mắm nêm giã với rau é trắng! Lạ, đàn con đông đúc kia cũng chẳng vì vậy mà giảm năng suất. Cái nồi rồi cũng sạch trơn. Phải, có nhớ được như vậy mới thấy hết cái giá trị của hôm nay, của bây giờ. Và, không hiểu sao, tôi thấy thích những người nước ngoài đến với chúng ta họ ăn được cả những món như mắm nêm, mắm tôm. Nhiều người trong số họ đã ăn mắm nêm, mắm tôm một cách rất thực lòng.
Vậy còn những người lớn lên từ những nồi canh suông, từ những chén mắm nêm giã é trắng kia? Có người bảo:
- Những món quê rồi sẽ lên hàng đặc sản. Ví như rau lang luộc chấm mắm nêm trước kia ăn cho đỡ đói bây giờ lại thấy rất ngon!
Ngon, có thể do tận cảm được hương vị của món ăn; cũng có thể do nó đã gợi nhắc một đôi điều gì đó về những câu chuyện xưa cũ, đã khắc ghi như một hoài niệm sâu thẳm. Nhưng, cũng có một số vị Việt kiều về nước bảo:
- Mắm nêm hôi lắm! Không ăn được!
Đêm giao thừa Tết Dương lịch, trên đảo Hòn Tre, Vinpearl Land, trời có lúc mưa nặng hạt. Ấy vậy mà tôi thấy người Việt cùng nắm tay người nước ngoài vẫn cứ hát vang vang bài Happy new year! Những mái tóc tuy có khác màu. Những tiếng nói tuy có khác âm. Nhưng đã hòa cùng làm một, trong một giai điệu Happy new year ấm áp tình người giữa đảo mưa lộng gió, trong một thời khắc thật cảm động. Ông Lê Khắc Hiệp, Chủ tịch Hội đồng quản trị Vinpearl Land nói với tôi:
Chúng tôi đã rất cố gắng tổ chức nhiều hoạt động để khách nước ngoài có cảm giác thật gần gũi, thân thiện như ở chính quê hương mình!
Cũng đêm ấy, trên đảo này, tôi chứng kiến một nhà báo người Mỹ, ông Bradley O’leary, trên kênh truyền hình Nối vòng tay lớn đã phát động cộng đồng nhắn tin trên điện thoại để lấy tiền quyên góp giúp những người nghèo Việt Nam. Cứ mỗi một tin nhắn của cộng đồng, ông lại góp thêm vào đó một ít tiền cho những phận người không may. Tôi không nói số tiền của ông góp được nhiều ít thế nào, là bao nhiêu, mà chỉ nói rằng, riêng cái cách nghĩ, cách làm của ông đã khiến nhiều người Việt chúng ta thấm thía hơn về cái nghĩa đồng bào của chính mình. Có lẽ, đã đi nhiều nơi trên thế giới, đến với đất nước này ông mới nhận ra rằng trên mảnh đất mình đang đứng sao thật giàu tình người đến như vậy; và, ông cũng biết được rằng, không ở đâu trên thế giới này lại có hai chữ đồng bào thiêng liêng đến vậy. Có lẽ, bởi vậy, ông đã hòa mình vào dòng chảy đó, để mà nối vòng tay lớn.
Bây giờ, một năm mới đang đến. Những lúc không ngủ được, tôi hay lôi sách ra lật theo kiểu bói Kiều. Lần này, mở sách ra, bỗng dưng gặp ngay trang có chữ Hội. Hội: Hợp lại; gặp nhau; ý tứ và sự lý phù hợp nhau. Những ngày cuối năm, rộn ràng đất nước bàn chuyện bơi ra biển lớn. Báo chí nước ngoài cũng đã dành cho chúng ta những dòng tít thật lớn, đầy ấn tượng, như:
Mọi ánh mắt đều hướng về Việt Nam!
Việt Nam? Ở đó có gì? Có lẽ, hơn ai hết, chúng ta phải hết sức thực lòng khi trả lời câu hỏi này. Đã có được những gì. Còn chưa có những gì. Đã làm được những gì. Còn phải tiếp tục làm những gì. Cho nên, ở trên, tôi mới nói tới một công cuộc dọn mình - dọn mình thực sự, để trên biển lớn, gió to sóng cả mà vẫn vững được tay chèo.
Nha Trang có núi, có sông, có đồng, có biển. Có một Nha Trang biển xanh, cát trắng, nắng vàng. Về với biển, tôi lại có vài chú tôm hùm. Con tôm hùm còn sống, lấy tiết pha rượu, mình tôm lấy một ít để sống, quấn cải xanh chấm mù tạt, phần còn lại cho lên bếp than hồng. Hoặc là con hàu giá, chỉ lấy mỗi cái cồi đem nướng xiên que; còn lại nấu lá giang rừng. Có vậy. Mà xa nhớ khôn cùng. Mấy độ Thu Đông qua lại; mấy thuở nước lớn, nước ròng mà những bến bờ xưa cũ vẫn cứ đinh ninh đứng đợi. Đợi những nhân duyên. Khách đến Nha Trang, cứ tìm tới biển. Để rồi bờ bãi muôn niên cứ lưu giữ mãi dấu chân ai. Cây cỏ tịch liêu trong không gian vời vợi, gợi nhắc khôn cùng nỗi niềm lữ thứ. Khách đi rồi, tình còn ở lại. Nha Trang mong, ngày về…
Về với Nha Trang, người ta có thể đến với những món cao lương, mỹ vị như vi cá, yến sào…; hoặc bình dị, dân dã như bún cá, nem chua… Thảy đều có cả. Mà, món nào cũng nồng nàn hương vị Nha Trang, khó lẫn lộn với những nơi khác.
Và, tôi còn muốn nói tới một Nha Trang nữa: Nha Trang của những ngày vui. Vui, bởi những hội hè ngày mỗi thân quen, đầm ấm. Vui, bởi những cuộc trùng phùng, tay trong tay, không muốn rời xa. Ai đó vui gọi Nha Trang là thành phố... hoa hậu. Bởi Nha Trang đã nhiều lần là nơi tụ hội của nhan sắc bốn phương. Rồi đây, khi Nha Trang được tập trung xây dựng thành nơi chuyên tổ chức các sự kiện chính trị, văn hóa, thể thao, du lịch… mang tầm cấp quốc gia, quốc tế, những ngày vui sẽ tiếp nối dài thêm, dài mãi; để niềm vui cứ ngập tràn, òa vỡ hòa cùng sóng biển xôn xao… Bạn bè thương yêu lại cứ gọi anh em ở Nha Trang mỗi một mùa Hè đi qua là một mùa nóng bỏng. Bởi, anh em, bè bạn từ Nam ra Bắc, từ xuôi lên ngược, đều dành thời gian ghé với Nha Trang. Ngồi cùng nhau. Hàn huyên chưa vơi, đêm đã sáng. Rộc rạc người. Mà vui.
Hôm tôi dự lớp tập huấn nghiệp vụ báo chí theo dự án SIDA tại Hà Nội, những giảng viên người Thụy Điển hỏi tôi sống ở đâu, tôi trả lời ở Khánh Hòa, họ chỉ ờ ờ ghi nhận. Nhưng, khi nghe tôi nói thêm hai chữ Nha Trang, họ đồng thanh ồ lên rất thích thú. Có lẽ, nhiều người nước ngoài biết đến, nhớ tới tên gọi Nha Trang nhiều hơn là tên gọi Khánh Hòa, nhất là khi vịnh Nha Trang trở thành một trong những vịnh đẹp nhất thế giới.
Nha Trang là thành phố trẻ. Cho tới giữa thế kỷ XIX, nơi này vẫn là một vùng đất còn hoang vu lắm. Hồi ấy có câu hát:
Mả vòng đêm vắng ma trêu nguyệt Phước Hải rừng Xuân cọp thưởng mai
Nhưng chỉ qua hai thập niên đầu thế kỷ XX, diện mạo Nha Trang đã thay đổi nhanh chóng, cứ như một cơ thể vạm vỡ, cường tráng đương độ xuân thì. Áo mới vừa may xong đã chật. Cho nên, quy hoạch phát triển Nha Trang về lâu về dài hiện vẫn là một bài toán khó, đòi hỏi phải có lời giải thật khoa học, thật chu đáo. Nha Trang đang được nâng tầm. Không chỉ bằng việc may thêm nhiều áo mới cho hợp, cho đẹp, mà còn phải nâng tầm suy nghĩ, nâng tầm nhận thức của người dân và cộng đồng trong việc xây dựng hình ảnh đô thị Nha Trang xanh, sạch, đẹp, văn minh và thân thiện.
Tỉnh Khánh Hòa định hướng xây dựng Nha Trang thành nơi chuyên tổ chức các sự kiện văn hóa, thể thao, du lịch có tầm quốc gia, quốc tế. Cho nên hệ thống cơ sở hạ tầng đang được đầu tư nâng cấp để đáp ứng yêu cầu đẳng cấp quốc tế của khách. Không chỉ vậy, người dân Nha Trang cũng đã bắt đầu có chuyển biến tốt trong cách ứng xử, văn minh hơn, lịch sự hơn trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong những lúc có lễ hội, khi nhà có khách.
Nói đến đây, tôi chợt nhớ một câu chuyện. Ngày trước, để tỏ lòng thương cảm và động viên một môn sinh nghèo túng, Xuân về chỉ có mỗi quả bưởi biếu thầy, cụ Tam Nguyên Yên Đổ ung dung đọc:
Uẩy! Tết đến đó rồi! Chẳng lẽ giơ cùi cùng tuế nguyệt? Kìa! Xuân sang đấy nhỉ! Phen này mở múi với giang san!
Giơ cùi đối với mở múi. Chuẩn, hay quá! Không lẽ cứ giơ cùi như vậy mãi? Rồi cũng phải mở múi ra chứ! Trong tôi, lại cứ nao nao một cảm giác muốn được nhìn những dòng chữ Welcome! trên phố đầy sinh động.
Nha Trang.
Welcome!
Nha Trang, Xuân Đinh Hợi - 2007