Ðêm mông lung trong thung Ô Kha. Sương mờ giăng tấm khăn voan mơ hồ trên núi rừng Khánh Sơn cô tịch. Có tiếng con chim bắt muỗi nghe mênh mang trong không gian bàng bạc. Non ngàn như mơ màng trong giấc cô miên, thăm thẳm.
Tôi ngồi bên bếp lửa, trong gian nhà nhỏ nhắn của người Raglai, đợi ama (ba, bố) Mấu Xuân Ðiệp, nghệ nhân đàn chapi. Ông đang bận đi thăm một người bạn cũ. Away (má, mẹ) Mấu Thị Mười, vợ ông, ngồi cùng chúng tôi, lặng lẽ. Lửa tí tách reo bên vách nứa thưa. Away Mười thêm củi cho nồi canh rau rịa bà vừa hái khi chiều. Canh rau rịa nấu với khoai mì. Món này tôi không lạ. Không thịt, không cá cũng cứ ngọt lừ; và thơm lừng hương vị núi rừng. Bên cạnh nhà, không như những con sông khác xuôi chảy về Đông, dòng Tô Hạp cứ thổn thức, miên man quay ngược về phía Tây, như cố lần tìm về một miền hoài niệm xa lắc của nhiều thế hệ người Raglai trên dải Trường Sơn hùng vĩ.
Người Raglai bình dị, chân chất mà dữ dội, kiên trung. Mảnh đất nơi tôi ngồi, dưới chân núi Tà Nĩa, thuộc xã Sơn Trung, huyện miền núi Khánh Sơn, tỉnh Khánh Hòa giờ đây thật yên bình. Trên những vạt đồi cao mênh mang cỏ dại, chiều về tiếng mõ gió khua nghe man mác thanh bình. Ôi, tiếng tre! Trầm, vang, và chắc, đều đều reo theo gió, như sênh phách sóng đôi. Hoặc đâu đó, dưới những tán rừng xanh, tiếng đàn đá thánh thót ngân lên, trong veo, thanh thoát và ý vị. Nhưng, ngày trước, nơi này từng là thung lũng tử thần, là nỗi ám ảnh kinh hoàng của giặc thù xâm lược. Bởi rừng thiêng Tô Hạp luôn đón chúng bằng những bẫy ná, chông tên nhọn hoắc, lạnh lùng và bằng lòng quả cảm vô biên, xuất quỷ nhập thần của đồng bào, du kích Khánh Sơn.
Ô hay, sao đâu đây vẳng đưa có tiếng hát nồng cháy của người con núi rừng Y Moan. Và những dòng tâm tình về cây đàn chapi chan chứa nỗi niềm của nhạc sĩ Trần Tiến:
Ở nơi ấy, họ đang sống cuộc sống yên bình Ai nghèo cũng có cây đàn chapi
Khi rung lên vài sợi dây
đàn đã đong đầy hồn người Raglai...
Tôi đang ngồi trong ngôi nhà của người Raglai. Tôi đang thở không khí Raglai. Và trong tay tôi, cần rượu tapai của người Raglai đang vít cong, nồng ấm tình bằng hữu sông hồ. Rượu tapai không đắng, không cay, nhưng nồng. Rượu tapai lâu say; nhưng lại say rất lâu, như chính cái tình người Raglai đằm thắm và chung thủy. Tôi đang chờ một người; và chờ nghe tiếng hồn người Raglai: đàn chapi.
Lúc chiều, khi nghe chúng tôi ngỏ ý muốn tìm hiểu về đàn chapi, nghệ nhân dân gian Mấu Quốc Tiến, người con của đồng bào Raglai, người rất tâm huyết trong việc sưu tầm, lưu giữ văn hóa truyền thống của người Raglai, lại say sưa nói về... nhạc cụ mã la. Ông bảo, người Raglai gắn bó với tiếng mã la từ bao nhiêu đời nay. Tiếng mã la luôn ngân lên trong những dịp lễ, Tết quan trọng. Chính vì vậy, mã la luôn là bảo vật truyền đời của những dòng họ Raglai. Ở Khánh Sơn, tôi đã nhiều lần nằm nghe tiếng mã la thổn thức trong đêm rừng sâu thẳm. Tiếng mã la khiến tôi mất ngủ. Nó cứ xô đẩy, níu kéo rồi dồn nén, bung bật như gió núi tương tư quay quắt trong thung sâu giữa rừng già. Nó đang vui, bỗng buồn rười rượi. Rồi trầm tư như ngọn núi Tà Nĩa mơ màng trong sương khuya. Ngày trước, chỉ có nhà giàu mới sắm được đầy đủ một bộ mã la, mà chỉ trong những dịp lễ lớn như mừng lúa mới, mừng đám cưới, lễ bỏ mả..., mã la mới được đem ra đánh, như một cách tạ ơn thần linh, sông núi.
Không có đủ điều kiện sắm mã la, những người Raglai nghèo bèn nghĩ cách làm ra một cây đàn bằng tre, phỏng theo tiếng mã la. Ấy là chapi. Chỉ có mỗi một mắt tre dài chưa tới hai gang tay mà cây đàn chapi mô phỏng được tiếng của cả một bộ mã la, theo mẫu hệ, có cả tiếng mẹ, tiếng cha; tiếng chị, tiếng em hòa hợp. Nghệ nhân dân gian Mấu Quốc Tiến nói rằng, cây đàn chapi là cả một bộ mã la thu nhỏ, chỉ do một người đánh, thay vì mã la cần tới dăm bảy, thậm chí hơn cả chục người. Ðơn giản, gọn nhẹ, đàn chapi theo chân người Raglai trên khắp mọi ngả rừng, mọi lối suối. Chapi những ngày mùa nghe tưng bừng, rộn rã. Chapi những đêm trăng nghe tha thiết, mênh mang. Chapi là tiếng của nứa tre; tiếng của ông bà linh hiển, của rừng thiêng màu nhiệm. Nhịp chapi chậm rãi mà phóng túng, như chính cái phong thái khoan thai, thư thả và những bước chân tự do đầy kiêu hãnh của người Raglai.
Tôi cứ nhớ ánh mắt buồn sâu thẳm của nghệ nhân Mấu Quốc Tiến hồi chiều, khi ông thở dài:
Ở huyện Khánh Sơn này, ngoài ama Ðiệp cũng còn có mấy người nữa biết khảy chapi. Nhưng những ama đó giờ đã già quá rồi, từ lâu không còn làm đàn, chơi đàn chapi được nữa. Cho nên, hiện giờ, ama Ðiệp là người duy nhất còn chơi được đầy đủ các làn điệu của đàn chapi và cũng là người duy nhất còn làm được đàn. Ðáng buồn, lớp con cháu Raglai giờ không còn yêu chapi nữa, chúng nó chỉ thích nghe nhạc xập xình mà thôi. Tệ hơn, có đứa còn không hề biết chapi là gì nữa!
Ở Khánh Hòa, người Raglai sinh sống chủ yếu ở hai huyện miền núi Khánh Sơn và Khánh Vĩnh. Cả huyện Khánh Vĩnh giờ cũng chỉ còn vài người biết chơi đàn chapi, nhưng không còn ai làm được đàn chapi nữa. Chỉ còn có mỗi Khánh Sơn. Mà tại đây, cũng chỉ còn có mỗi ama Ðiệp. Nhưng ông cũng đã già, đã yếu. Sợ rồi, một mai...
Có tiếng chân xa.
- Ổng về đó!
Away Mười nói khẽ, nhưng quả quyết. Như thuộc lòng mỗi bước chân ông.
Có vẻ ông đã nhiều rượu. Người đàn ông đã trải hơn sáu mươi mùa rẫy chào chúng tôi thật nhanh, rồi kêu vợ châm thêm rượu. Away Mười lại lặng lẽ vào nhà trong. Lúc nào bà cũng gượng nhẹ, dường như sợ gây nên tiếng động, sợ làm giật mình tiếng chapi mong manh của ông. Bà bảo rằng những lần ông khảy chapi luôn có bà kề bên. Bà ngồi nghe ông đàn mà lòng rạo rực nhớ về một thời con gái mê mẩn tiếng chapi. Chapi nuôi trong tâm khảm away Mười từng giấc mơ thanh xuân, cùng những câu hát Akhàt Jucar Raglai dịu ngọt. Và, có bà, tiếng đàn ông như say sưa hơn, tha thiết hơn.
Thêm một chút rượu tapai nữa.
Ngọn lửa chùng xuống trong sương khuya.
Ama Ðiệp hai tay nâng cây đàn chapi lên ngang ngực; ghì sát đầu ống tre vào người. Từng ngón tay ông lần bật trên những sợi dây tre; khi chậm rãi, nhẹ nhàng; lúc thoăn thoắt, dữ dội. Tiếng đàn không ngân dài, nhưng vang xa. Chapi trong đêm nghe như thác đổ, quặn thắt, chung chiêng, dội vào vách núi; nghe như gió hú lang thang, hun hút trên đại ngàn. Này là lời ước được mùa, cho bắp lúa đầy chồ, heo gà đầy sân. Này là lời tự tình của trai gái yêu nhau, cho cái miệng biết cùng nhau ăn miếng trầu, cho cái bụng biết cùng nhau suy tính về một mái ấm Raglai bền chắc. Này là khúc tiễn biệt hồn người đi về trên non cao, nơi thần linh đang an nghỉ, để rồi một ngày nào đó lại được trở lại làm người, như quan niệm luân hồi của người Raglai. Tôi không còn nghe ra đâu là những điệu tumuya, đánh trong lễ bỏ mả; đâu là riwư, mừng đám cưới; sa pathâu, điệp khúc ngày mùa; rồi alâu, tiếng hát giao duyên; catnâu cacu, tiếng hát chim cu gáy; trun pu, mừng lúa mới..., chỉ biết cứ mơ màng trong một suối nguồn âm thanh tre nứa phiêu bồng, miên man dưới chân ngọn Tà Nĩa kiêu hùng. Trong lâng lâng hơi men tapai, cứ vậy, tôi ngồi khêu lửa, và lặng nghe. Chapi ru đêm Trường Sơn. Chapi ru đêm Raglai huyền hoặc trong ánh lửa liêu trai giữa đêm đen đông đặc trên đại ngàn ngái ngủ.
Ama Ðiệp không đàn nữa. Ông cẩn thận mắc cây chapi lên vách nhà rồi giục chúng tôi uống rượu. Vẫn tapai.
Tiếng đàn đã dứt. Nhưng thanh âm chapi vẫn cứ như quanh quất đâu đây. Chừng như trở về từ cõi mơ, ama Ðiệp bắt đầu kể:
Ngày trước, nghe ông nội khảy đàn chapi, ama mê lắm. Ông nội còn dạy rằng, không biết làm đàn, không biết chơi đàn chapi thì không xứng làm đứa con trai Raglai. Ama học chơi đàn, học làm đàn từ hồi còn nhỏ. Hễ thấy ông nội đi đâu một chút là lén lấy đàn ra khảy liền. Càng lớn càng ghiền, không dứt ra được.
- Làm đàn chapi có khó không? Tôi hỏi.
- Làm thì không khó. Cái khó là đàn phải kêu cho hay; phải chỉnh làm sao đó để các dây đàn có âm thanh phát ra giống hệt tiếng mã la. Khi nào con rảnh rỗi, nhớ ghé lại đây ama chỉ cho cách làm đàn, cách đánh đàn chapi.
Tôi sốt sắng nhận lời. Nhưng ama Ðiệp chợt ngậm ngùi, đầu cúi thấp. Thêm một hơi rượu tapai nữa, ông mơ màng nhìn ra xa, phía dòng sông Tô Hạp ngày đêm thao thiết chảy. Ðêm nay, ngồi với chúng tôi, ông tỏ bày nỗi niềm sâu nặng cùng cây đàn chapi. Rồi mai, khách đi rồi, khi buồn, ông lại khảy chapi, như đi tìm sự chia sẻ đến tột cùng. Nhưng, đã không còn nhiều người Raglai có cái tai ưng nghe chapi nữa, không còn nhiều người Raglai có cái bụng suy tư cùng chapi nữa. Chỉ có away Mười, với ama Điệp, như một đôi tri âm gắn kết từ tiền kiếp, cho miên man thêm thanh âm chapi.
Nghệ nhân dân gian Mấu Quốc Tiến buồn buồn:
- Sử thi, mã la Raglai ngày càng ít người quan tâm tới. Những điệu hát ru con hay như vậy mà giờ không còn nữa. Riêng đàn chapi, nhạc cụ nhiều đời gắn bó với người Raglai, giờ cũng ít người biết chơi, biết làm. Giữ được các làn điệu của chapi cũng là giữ các làn điệu mã la. Do đó, phần làn điệu thì không mấy lo. Ðiều đáng lo chính là kỹ thuật làm đàn và cách khảy đàn. Thấy đơn giản vậy nhưng để làm được một cây đàn chapi cho hay và chơi chapi cho ra hồn không phải ai cũng làm được.
Trong thành phần các dân tộc Việt Nam, Raglai là tộc người chiếm tỷ lệ không cao, nhưng có vốn văn hóa cổ truyền khá phong phú, đa dạng, mang bản sắc đặc trưng, vừa có dáng nét văn hóa của vùng Trường Sơn - Tây nguyên lại có dáng nét văn hóa của cư dân vùng đồng bằng, ven biển Nam Trung bộ. Giữ gìn bản sắc văn hóa Raglai, trong đó có khôi phục và gìn giữ tiếng đàn chapi, do đó, là một nhiệm vụ quan trọng trong quá trình bảo tồn và phát triển văn hóa truyền thống của tỉnh Khánh Hòa. Theo Trưởng phòng Văn hóa - Thông tin huyện Khánh Sơn Phạm Văn Hợp, huyện đã có kế hoạch bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của đồng bào Raglai như chữ viết, sử thi, mã la... và bước đầu đã có kết quả. Tuy nhiên, với cây đàn chapi thì chưa thể thực hiện được. Huyện rất mong muốn tổ chức các hoạt động lưu giữ tiếng đàn chapi như đưa vào giáo dục trong nhà trường; hoạt động ngoại khóa; các hoạt động đoàn thể, địa phương; giao lưu; biểu diễn; lễ hội..., nhưng khó vô cùng. Cái khó trước hết là ngay chính người Raglai hiện giờ cũng không còn mấy người mặn mà với đàn chapi nữa. Tiếp đến, các vấn đề về con người, kinh phí phục vụ cho công việc khôi phục, bảo tồn cũng gặp rất nhiều khó khăn. Ðơn cử như về kinh phí, trước nay, huyện chưa hề được cấp kinh phí thường xuyên để thực hiện công tác bảo tồn văn hóa Raglai.
Ðêm nay, ama Ðiệp không nói gì nhiều về việc bảo tồn đàn chapi. Dường như ông đã nói quá nhiều, và cũng đã quá mỏi mệt, nếu không muốn nói là vô vọng. Chỉ thấy đọng lại trong ánh mắt ông một nỗi buồn, một nỗi day dứt. Tôi hiểu, và gọi ấy là nỗi buồn chapi. Người Raglai đã nói những điều mình muốn nói qua tiếng đàn chapi. Chapi chở nặng tiếng lòng người Raglai. Nhưng, giờ đây, tôi nhìn cây đàn chapi của ama Ðiệp mà lòng buồn se sắt. Nó vẫn hát về một thời quá vãng vàng son, đầy đam mê và tiếc nuối; và hát về một ngày mai vô định, với bao nhiêu nỗi day dứt, xót xa. Nói dại, mai này, khi ama Ðiệp đi về với thần linh, cây đàn chắc chắn sẽ trở nên bơ vơ, cô độc khôn cùng. Sẽ không còn ai rung lên nữa những sợi tơ lòng nhiều trắc ẩn của người Raglai trên cây đàn chapi. Ngày ấy, không còn xa. Bởi ama Điệp đã già yếu rồi, tuổi trời như bóng trăng qua núi. Tôi không dám nghĩ thêm nữa. Bởi, không thể hình dung nổi, lúc ấy, away Mười sẽ ra sao.
Cây đàn chapi trong nhà ama Ðiệp rồi sẽ dần bị chìm lấp trong những lớp bụi thời gian nghiệt ngã, vô tình và trong sự hờ hững, thờ ơ của chính những người hằng gắn bó, yêu thương nó. Ôi, tiếng lòng người Raglai!
Chia tay Khánh Sơn, lên tới đỉnh đèo, tôi dừng lại. Phía trước mặt là thành phố Cam Ranh; là biển Đông xanh ngằn ngặt. Sau lưng tôi, Khánh Sơn đang chìm dần, chìm dần trong lớp lớp sương chiều bàng bạc. Dòng Tô Hạp vẫn cứ lặng lẽ, mải miết trong mạch suy tư đi về phía mặt trời lặn của nó. Bảng lảng trong sương, có mấy nếp nhà Raglai chênh vênh trên triền núi. Chỉ một thoáng chốc, tất cả đã chìm khuất, không còn nhìn thấy gì nữa.
... Ở nơi ấy, họ đang sống cuộc sống yên bình...
Dường như tôi nghe có tiếng chapi. Chapi ở đâu, giữa núi rừng quạnh quẽ? Hay tiếng chapi tự những ngọn núi, những rừng cây bao đời nay kết tụ giờ rung lên, gợi nhắc?
Bất giác, tôi bật kêu lên: Ôi, chapi...
Khánh Sơn - Nha Trang, mùa Hè 2013