Trường Sa sau cơn bão số 1.
Trời và biển hòa cùng một màu xanh ngăn ngắt.
Biển trở nên hiền lành sau những cơn dữ dằn, cuồng nộ. Ở Trường Sa, giông, lốc diễn ra quanh năm. Đây là nơi thường xuyên hứng chịu các cơn bão lớn đi qua. Có phải vậy chăng mà thiên nhiên, con người ở đây có sức chống chịu mãnh liệt, như cây phong ba, cây bão táp hiên ngang đứng giữa biển trời giông gió?
Con tàu HQ 936 hướng mũi về Đông, mải miết. Trường Sa đang ở phía trước. Đã ra với Trường Sa rất nhiều lần, cho nên tôi hình dung rất rõ những đảo mình sẽ đến. Ấy là những hình ảnh rất thân quen. Những ngôi nhà, những mái chùa và cả dáng hình của những người lính bồng súng bên cột mốc chủ quyền nơi biên đảo.
Truyền thanh trên tàu thông báo tàu sắp cập vào đảo. Cả tàu ra đứng ngoài mạn, nhìn về phía đảo. Chưa thấy gì. Chỉ có một dải xanh xanh giữa mênh mông biển cả. Tàu vào gần hơn. Dải đất xanh xanh kia cũng lớn dần, rõ dần lên. Và, trong một màu xanh dịu dàng cây lá, đã thấy mái chùa cong cong, thấp thoáng. Hình ảnh làng quê Việt Nam hiện lên thật gần gũi và hồn hậu giữa biển trời lồng lộng gió. Ngói cũ rêu phong. Thếp son cổ kính. Giữa sóng gió trùng khơi, những mái chùa ở Trường Sa thực sự là mái nhà ấm cúng cho đời sống tâm linh của những người đang sống và cho cả hương hồn những người đã dừng chân yên nghỉ trên mảnh đất này.
Tôi đã ra Trường Sa rất nhiều lần. Và chợt thấy rằng, Trường Sa là một vùng đất thật kỳ lạ. Mỗi một người đến; mỗi một lần đến đều mang trong mình một dấu ấn, một cảm xúc rất khác nhau. Song, có lẽ, tất cả đều xuất phát từ chung một mạch nguồn: được đến với nơi tuyến đầu biển Mẹ Việt Nam, vùng đất thiêng của Tổ quốc. Thiêng, bởi một tấc đất, một sải biển ở đây kết tinh bao nhiêu giá trị văn hóa, lịch sử; thấm đẫm bao nhiêu mồ hôi xương máu của dân tộc chúng ta. Và, có vậy, nhiều người ra với Trường Sa bảo rằng, có đứng giữa trời biển Trường Sa mới thật sự thấm thía hai chữ chủ quyền.
Chỉ mới hai năm, tôi ra lại. Trường Sa đổi thay nhiều quá, nhanh quá. Ấn tượng nhất vẫn là một màu xanh đầy sức sống, xanh đến nao lòng. Để có được màu xanh cây lá trên một vùng đất khát, đầy nắng và gió như ở đây là không hề dễ dàng. Nước hiếm. Nhưng gió thì phóng đãng, dữ dằn. Vậy mà đảo nào cũng xanh hơn rất nhiều. Biển xanh. Trời xanh. Và cây xanh. Trường Sa hôm nay khoác chiếc áo xanh dịu mát, không chỉ của những cây phong ba, bão táp, bàng vuông… mà còn có cả cây ăn trái như xoài, chuối, đu đủ và nhiều loại rau xanh… Cây xanh bên chiến hào. Cây xanh trên bãi cát. Người chăm chút cho cây. Cây rợp bóng cùng người. Đại đức Thích Quy Nghĩa, trụ trì chùa Trường Sa Đông chia sẻ, nắng, gió là vậy, nhưng trên bàn thờ Phật ở chùa vẫn luôn có những nhánh chuối xanh, những trái đu đủ tươi ngon hái từ vườn nhà. Lòng thành con người nơi đây như rộng mở cùng biển cả, hướng về chân, thiện, mỹ; về một cuộc sống no ấm, an lành.
Đảo Song Tử Tây. Đêm tịch mịch, yên ắng đến lạ lùng. Đâu đó có tiếng chuông chùa thoảng đưa trong gió, hòa cùng sóng biển. Nghe vừa xa, vừa gần. Trong tôi, tiếng chuông chùa Hàn San lúc nửa đêm trên bến Cô Tô của Trương Kế thi sĩ ngày xưa luôn là một tiếng thơ huyền diễm, đầy sức gợi về một nỗi niềm lữ thứ. Còn bây giờ, giữa Trường Sa điệp trùng sóng vỗ, tiếng chuông chùa nền nã, thong dong, nghe ấm cả không gian, ấm cả lòng người. Tôi lặng nghe. Chuông thao thức nguyện hồn người, nguyện anh linh những anh hùng, tử sĩ; và bay lên tha thiết, khôn nguôi bao nhiêu ước vọng về một cuộc sống an lạc, thái hòa. Phải chăng, lời chuông nguyện trên đất thiêng nên cũng rất đỗi nhiệm màu trong sứ mệnh tỉnh thức của mình? Tôi đến thăm các Đại đức Thích Tâm Hiện và Thích Thánh Thành ở chùa Song Tử Tây. Trường Sa lộng gió. Khói hương trầm mặc. Câu chuyện về đạo, về đời cứ kéo dài, dài mãi.
Hai sư thầy có hai hoàn cảnh khác nhau, có thời gian tu tập khác nhau, nhưng cùng một suy niệm là được sống và tu luyện trên vùng đất biên đảo thiêng liêng của Tổ quốc là một diễm phúc lớn. Không gian, đời sống ở Trường Sa là môi trường rất tốt cho việc tu hành. Hơn nữa, do ngày ngày phải đối mặt với sóng to, gió lớn, vật chất cũng còn thiếu thốn nên việc vun đắp thêm một điểm tựa về tinh thần, tâm linh cho người dân ở đây là điều rất quý giá. Sống cho ái từ, nhân đức, vốn là truyền thống của dân tộc ta, cũng luôn là điều tâm niệm trong rèn tập của giới tăng sĩ, Phật tử cũng như quân dân nơi này. Và, theo hai sư thầy, sẽ có rất nhiều ý nghĩa khi đem giáo pháp về bi, trí, dũng đến với quân dân nơi này. Sống từ bi, chia sẻ nỗi thống khổ của chúng sanh; sáng suốt, nhận rõ được chân lý và sự thật, tiêu trừ khổ não và tinh tấn, can đảm, không yếu đuối, sợ sệt, kiên trì để thắng mọi thử thách, gian nan.
Tháng Tư ta. Những đóa sen thanh tao nâng bước giác ngộ của Đức Thích Ca Mâu Ni ngày nào giờ đang xòe nở giữa nắng, gió Trường Sa, mừng ngày Đức Phật đản sinh, một hiện thân của vô ngã, vị tha; hằng ước nguyện con người mãi được yên vui, hạnh phúc; thế giới hòa bình. Đại lễ Phật đản Phật lịch 2556 năm nay, các chùa ở Trường Sa được trang hoàng lộng lẫy lắm. Người dân cũng hân hoan lắm. Bởi, cuộc sống, công việc làm ăn của mọi nhà ngày một ổn định hơn, khấm khá hơn. Bởi, đời sống tu tập, thực hành Phật sự của các vị tu sĩ cũng như người dân nơi này cũng ngày một tinh tấn hơn, giàu tính thiện hơn. Và cũng bởi, giữa giông tố, phong ba, đời sống kinh tế - xã hội của Trường Sa đang có sức vươn lên mạnh mẽ. Tôi gọi ấy là khúc tráng ca tuyệt diệu về ý chí, nghị lực của mỗi con người nơi đây, từ cháu bé cắp sách đến trường trong nắng gió cho tới chị phụ nữ sớm khuya bên chồng cưỡi sóng khơi xa; từ chư tăng, Phật tử đêm ngày cần mẫn nguyện cầu cho dân giàu, nước mạnh cho tới những anh lính trẻ nắng mưa vẫn luôn chắc tay súng bên chiến hào. Quân dân Trường Sa hướng lòng về cõi thiện. Và, tính thiện sẽ chiến thắng cái ác. Ấy là một tất yếu.
Từ trước Đại lễ Phật đản rất lâu, người dân Trường Sa đã không ngại khó khăn đến giúp quý thầy trang hoàng cho ngôi chùa của mình thật đẹp, thật lộng lẫy. Không khí mừng Phật đản khiến các đảo Sinh Tồn, Song Tử Tây… hân hoan, rộn ràng hẳn lên. Người lớn, trẻ em đều ăn mặc thật đẹp, náo nức ra chùa dâng hương, lễ Phật. Dịp này, chính quyền các xã, thị trấn ở Trường Sa dành nhiều thời gian đến thăm hỏi, chia sẻ công việc, tâm tình cùng các tăng sĩ, Phật tử; giúp tổ chức đại lễ Phật đản hoàn tất viên mãn. Trong không gian thờ tự trang nghiêm, hương khói trầm mặc, các tầng lớp nhân dân trên quần đảo Trường Sa cùng thành tâm cầu nguyện cho quốc thái dân an, thế giới hòa bình.
Trên chùa ở Trường Sa, tôi được đọc những dòng ân tình của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng viết khi tặng tượng Phật Ngọc Quan âm Bồ tát cho đảo Trường Sa:
Mong đức Phật phù hộ độ trì cho quân dân huyện đảo Trường Sa bình yên, mạnh khỏe, hạnh phúc, thắng lợi…
Tôi gọi lời cầu nguyện của quân, dân Trường Sa và vọng ước của Thủ tướng là một tâm nguyện chân thành, tha thiết về một cuộc sống an lành của một dân tộc có truyền thống giàu nhân ái, yêu chuộng hòa bình.
Như những làng quê Việt Nam khác, Trường Sa có rất nhiều chùa. Chùa ở Trường Sa có nhiều điều rất đặc biệt. Các chánh điện đều hướng về Hà Nội - trái tim của Tổ quốc, như đứa con xa đau đáu nhớ mẹ hiền. Trong chùa, các bức hoành phi, câu đối đều được viết bằng tiếng Việt, xác tín một nền văn hiến vốn xưng đã từ lâu, bất khả xâm phạm. Chùa lấy ngay tên gọi địa phương làm tên của mình, làm một keo sơn gắn kết, bất khả phân chia. Sân chùa không chỉ có cây đa, cây bồ đề gợi liên tưởng hạnh từ bi, cứu độ chúng sinh mà còn có cả những cây phong ba, cây bão táp thể hiện khí phách hiên ngang, kiêu hãnh của mảnh đất này.
Những lần gặp tôi ở Trường Sa, Thượng tọa Thích Giác Nghĩa thường kể chuyện về những cuộc lễ cầu siêu trong khu vực quần đảo Trường Sa. Ông nói, đã có không biết bao nhiêu người con đất Việt đã mãi mãi nằm lại trên vùng biển, đảo quê hương mình. Họ đã hóa hồn thiêng sông núi. Lời nguyện cầu hôm nay giúp hương linh những người nằm lại trên vùng biển, đảo quê hương được nhẹ nhàng, siêu thoát cũng như tri ân các thế hệ cha ông ta đã bỏ mình vì sự tồn vong của quốc gia. Thành tâm lớn nhất của Thượng tọa là hướng về tất cả những người con của đất nước đã bỏ mình nơi biển cả, không phân biệt họ là ai. Trong những Lễ cáo giang sơn, thưa trình những việc sắp làm, Thượng tọa nguyện cầu chư Phật từ bi phóng quang tiếp độ, cứu vớt những vong linh lênh đênh trên biển thoát khỏi vòng trầm luân đau khổ. Và, dường như tấm lòng đó đã được chia sẻ. Sư thầy cho biết đã cảm nhận được rất rõ những linh ứng từ những cuộc lễ ấy. Phải chăng, khi có chung một tâm nguyện thanh cao, âm dương đôi nẻo lại giao hòa mà cùng nhìn về một hướng dựng xây, cho dân tộc trường tồn?
Đại đức Thích Giác Nghĩa tỏ ra rất xúc động khi nói về công việc của mình. Ông cho rằng, những cuộc đại lễ cầu siêu ấy là nén tâm hương thành kính tri ân, mang nhiều ý nghĩa đối với những người đã khuất. Cầu siêu, giúp hương linh các anh hùng, liệt sĩ được nhẹ nhàng, siêu thoát. Và, ấy cũng là sự sẻ chia, giúp vợi bớt nỗi đau mất mát của những người thân, gia đình liệt sĩ. Đại đức nói hành trang ra với Trường Sa của mình là sự toàn tâm, toàn ý hướng tới việc tu hành; và đó cũng là cách thực hành bổn phận của một công dân đối với dân tộc; của một người con Phật đối với đạo pháp. Mà, theo Phật giáo, đạo pháp đồng hành với dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hòa quyện, gắn bó, tạo thành một khối thống nhất không thể tách rời.
Trên thị trấn Trường Sa, tôi tình cờ gặp chị Hà Thị Thắm trên đường đến chùa, mang theo mấy nhánh chuối xanh, sản vật cây nhà lá vườn. Trái chuối ở đây không lớn, không xanh mơn mởn, bởi nó phải chống chịu với khô khát, bão bùng. Cây mọc lên từ sỏi đá, gió giông. Mà trái ngọt đượm lên từ lòng thơm thảo. Chùa gần nhà. Và những vị sư ở chùa cũng như người nhà. Chị nói rằng, lên chùa là một việc làm không thể thiếu mỗi ngày. Quân và dân Trường Sa thường xuyên làm lễ cầu siêu cho anh linh các anh hùng liệt sĩ, đồng bào tử nạn trên vùng biển, đảo quê hương; làm lễ cầu an cho nhân dân, cán bộ chiến sĩ trên đảo, cho đồng bào cả nước; nguyện cầu cho sóng yên, biển lặng để công việc làm ăn, sinh sống được thuận buồm, xuôi gió. Tôi cho rằng, mong có một cuộc sống thanh bình, yên ấm, có lẽ, không chỉ là tâm nguyện của đồng bào, chiến sĩ Trường Sa mà là của cả một dân tộc chúng ta có truyền thống yêu chuộng hòa bình. Ngày nào chị Hà Thị Thắm cũng ra chùa, tụng kinh, niệm Phật xong lại giúp quý sư thầy chăm chút ngôi chùa của mình cho đẹp, cho tươm tất. Chị nói rằng nhờ có quý sư thầy hướng dẫn, công việc thờ phụng, cúng kính trong gia đình giờ đã bài bản lắm.
Ngư dân của ta ra đánh bắt ở ngư trường Trường Sa cũng thường xuyên lên chùa, dâng hương lễ Phật. Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Trường Sa Lê Đình Hải cho biết, bà con ngư dân của ta đánh bắt trong khu vực quần đảo Trường Sa thường xuyên ghé đến các đảo, lên chùa dâng hương lễ Phật, cầu mong những chuyến biển được mát mái, xuôi chèo. Gặp chúng tôi trên cảng, anh Trần Văn Tí, ngư dân ở Bình Định nói rằng đi nhiều ngày ngoài biển rất muốn ghé lên đảo, vô chùa thắp hương, lạy Phật; cầu mong những chuyến biển được thuận buồm xuôi gió. Có vậy, mà lòng thấy bình yên hẳn; tự tin ra biển như ở chính nhà mình.
Ngồi cùng Chuẩn Đô đốc, Phó Tư lệnh Quân chủng Hải quân nhân dân Việt Nam Trần Đình Xuyên, ông tỏ ra rất tâm đắc về mối quan hệ như ruột thịt của những vị tu sĩ với nhân dân, cán bộ, chiến sĩ trên đảo; rất xúc động trước sự đóng góp to lớn, quý báu của Phật tử trong công việc trùng tu, chăm sóc các chùa cũng như sự hiện diện của các tăng sĩ ở đây. Ông bảo, đó là sự thể hiện rất cụ thể mà lại rất cao cả lòng yêu nước, tinh thần hòa hợp của người dân Việt Nam. Vì vậy, ông căn dặn cán bộ, chiến sĩ trên đảo hết sức cố gắng giúp đỡ các vị tu sĩ, để họ có điều kiện tu tập tốt nhất; đồng thời gửi gắm quý sư thầy quan tâm chăm sóc nhiều hơn nữa, tốt hơn nữa đời sống tinh thần, tâm linh của đồng bào, chiến sĩ ở đây. Trong đời sống xã hội, giáo lý Phật giáo đề cao giá trị con người, hướng thiện, đoàn kết, hòa đồng với cộng đồng, xây dựng xã hội an bình đã thấm đượm trong tư tưởng, ứng xử của đông đảo người dân Việt Nam. Những nhân tố ấy đã góp phần hun đúc nên những giá trị đạo đức tốt đẹp của con người Việt Nam qua nhiều thế hệ. Ngôi chùa Phật giáo đã trở thành địa chỉ tín ngưỡng và nơi gắn bó, thân thuộc của nhân dân ta. Hầu hết các vùng miền, làng, xã ở Việt Nam đều có những ngôi chùa Phật giáo.
Đất của vua, chùa của làng.
Trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc, hình ảnh mái chùa luôn gần gũi, thiêng liêng trong ký ức mỗi người Việt Nam.
Mái chùa che chở hồn dân tộc Nếp sống muôn đời của tổ tông
Ở các chùa trên Trường Sa, tôi đã gặp những người như anh Cốc, anh Xin… đã gắn bó với chùa như chính nhà mình. Ngày lại ngày, những trụ cột gỗ trong chùa lại bóng thêm lên, soi rõ mặt người; những cây xanh trong sân chùa rộng xòe thêm bóng mát chở che.
Việc của chùa cũng như việc nhà mình, cố gắng làm thật tốt!
Hai anh đều chung một suy nghĩ như vậy.
Công việc Phật sự hàng ngày của thầy Thích Đạo Biện và Thích Đức Hỷ trên đảo Sinh Tồn cũng không khác mấy so với ở đất liền. Có chăng, đó là bên cạnh việc trồng cây, trồng rau, quý thầy còn dành nhiều thời gian đến thăm, gặp gỡ từng hộ dân, trò chuyện cùng anh em bộ đội. Với quý thầy, một ngày ở Trường Sa là vô cùng quý báu, bởi có trải nghiệm cuộc sống ở đây mới cảm nhận được hết những nhọc nhằn, gian lao của đồng bào mình trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chính từ tình cảm ấy mà hết sức cố gắng trong rèn tập, ngõ hầu đóng góp chút sức mọn, theo quý thầy, mà dựng xây đảo ngày thêm vững mạnh.
Thời gian gần đây, những ngôi chùa ở Trường Sa đã được tu bổ, sửa sang lại, khang trang hơn, chu đáo hơn. Và bóng dáng của những chiếc áo vàng nhà Phật như thắp sáng thêm niềm tin cho đạo, cho đời cho những người dân ở đây. Với sự hướng dẫn, giúp đỡ của giới tu sĩ trụ trì ở đây, đời sống tâm linh của người dân được chăm sóc tốt hơn. Chẳng hạn như người dân được các sư thầy hướng dẫn những nghi thức thờ phụng trong gia đình cũng như được nghe những câu chuyện bổ ích trong rèn tập đạo đức, làm lành, tránh dữ. Và, cũng ở những ngôi chùa này, người dân, cán bộ chiến sĩ có điều kiện tìm hiểu tốt hơn về Phật giáo; học tập được nhiều điều hay, lẽ phải từ một tôn giáo đã đồng hành cùng dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử hơn hai ngàn năm qua.
Mang ra tình cảm. Mang về niềm tin.
Một người lính nói vậy, với những người ra thăm Trường Sa. Đất liền mang tình cảm ra đảo. Và đảo tiếp thêm cho đất liền niềm tin về bản lĩnh biên thùy. Bây giờ, trên đảo, những người dân, người lính đang được tiếp thêm sức mạnh trong đời sống tâm linh, vững thêm niềm tin về một cuộc sống yên lành. Hôm tôi ra Trường Sa, trăng như huyền hoặc hơn trên biển, cứ đi theo mãi con tàu. Trong hải trình tôi đi qua, biển có nơi sâu tới trên năm nghìn mét. Nhưng có chiều sâu, bề rộng nào bằng chiều sâu, bề rộng của lịch sử văn hóa biển, đảo Việt Nam, với những câu chuyện cha Lạc cùng đàn con của mình quyết đạp sóng dữ mà xây dựng biển, đảo quê hương cho được như ngày hôm nay? Bây giờ, tôi được đi trên con tàu lớn, hiện đại thế này. Cha ông ta ngày trước, thuyền ghe nhỏ bé, không biết gian khổ, hy sinh đến nhường nào!
Chùa Trường Sa Lớn được xây dựng gần đài tưởng niệm liệt sĩ trên đảo Trường Sa, đối diện với Nhà tưởng niệm Bác Hồ, khu trung tâm hành chính của huyện đảo. Khi tôi đến, Đại đức Thích Ngộ Thành là công dân mới nhất của Trường Sa, là vị tăng sĩ trẻ tuổi mới từ đất liền ra trụ trì ngôi chùa Trường Sa. Đại đức là một trong sáu vị tăng sĩ mới đây xin ra trụ trì các chùa ở Trường Sa theo ý nguyện đạo hạnh.
- Tôi mong muốn được gắn bó với Trường Sa để được cùng các chiến sĩ, bà con trên đảo Trường Sa Lớn trông coi, nhang khói thờ phụng Đức Phật… Được đến Trường Sa là niềm hạnh phúc đối với bất cứ công dân nào. Được thờ phụng Đức Phật tại một ngôi chùa trong quần đảo Trường Sa càng là niềm hạnh phúc của bất cứ Phật tử nào…
Đại đức chia sẻ.
Ra đảo, Đại đức Thích Ngộ Thành đi thăm từng hộ gia đình trên đảo Trường Sa Lớn. Mới đây thôi, Đại đức trực tiếp đến tận gia đình cô giáo Bùi Thị Nhung để làm lễ thôi nôi cho bé Đặng Phương Nam. Gặp gỡ chiến sĩ và bà con huyện đảo, Đại đức Thích Ngộ Thành xúc động tri ân những anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống mảnh đất này để giành độc lập, tự do cho Tổ quốc… Và hơn hết, đó là tấm lòng từ bi, hỉ xả của Đức Phật sẽ hiện hữu ở đảo, để nâng đỡ linh hồn những anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống cho mảnh đất này; để độ trì và che chở cho cuộc sống bình yên của những người con nước Việt nơi đảo xa.
Đêm lộng gió. Khói hương trầm mặc. Chúng tôi cùng ngồi bên những tách trà ấm nóng. Câu chuyện về đạo, về đời cứ kéo dài, dài mãi. Có khách đến xin chữ. Đại đức Thích Ngộ Thành viết tặng khách thư pháp trên những vỏ sò, mảnh san hô với những chữ thông dụng như Phúc, Lộc, Thọ, Phú, Quý… Bất chợt, Đại đức quay sang hỏi tôi:
Bạn muốn viết chữ gì?
Thưa, xin thầy cứ tùy duyên!
Không hiểu sao, Đại đức viết tặng tôi một chữ An đỏ thắm trên sắc trắng của một vỏ sò hóa thạch, nghe nặng trĩu tháng năm và chập chùng kích chiều biển cả.
Tôi hiểu, sư thầy viết chữ ấy không dành riêng tôi, mà cho khát vọng hòa bình của cả dân tộc chúng ta.
Trường Sa - Nha Trang, tháng 5 năm 2012