Tôi đã về Ninh Vân nhiều lần. Lần đầu tiên, cách đây ngót nghét đã hơn chục năm, khi theo chân những người thợ điện lực đi khảo sát để kéo lưới điện quốc gia về xã đảo. Đưa dòng điện về đây quả là một kỳ công. Bởi Ninh Vân không có đường bộ đi vào. Ba phía Bắc, Đông, Nam của Ninh Vân đều giáp biển. Còn phía Tây lại tựa dãy Hòn Hèo cao ngất, hiểm trở. Bấy giờ, phương tiện đi lại duy nhất của người dân Ninh Vân là thuyền chèo, nhà nào sang lắm mới có ghe dùng máy F5, F6 hoặc D6, D8. Cho nên đường dây điện cứ phải vượt núi mà đi. Rồi tôi cũng có mặt ngày nhân dân Ninh Vân hân hoan đón dòng điện lưới quốc gia về đảo. Dân đảo ăn mừng cả tháng. Dãy Hòn Hèo uy nghi nhiều đêm không ngủ, cứ ngơ ngác, bâng khuâng nhìn điện sáng miên man dưới chân mình.
Không lâu sau đó, tôi lại về Ninh Vân dự lễ khánh thành điểm Bưu điện - Văn hóa xã. Hôm ấy, người trực điện thoại dày dạn trận mạc của ngành bưu điện mà tay cứ run run, xúc động cầm ống nghe:
- Alô! Ninh Vân nghe đây!
Chỉ có mấy tiếng như vậy, mà người dân Ninh Vân đã phải đợi chờ từ bao nhiêu đời nay. Không run sao được?
Trong niềm xúc động thiêng liêng đó, nhiều cụ già ngồi lỉ kỉ kể tôi nghe chuyện về những ngày thơ ấu của mình nơi miền sóng nước dữ dội này. Trong câu chuyện, tôi nghe ra cả tiếng hú gọi bầy của đàn vượn giữa núi rừng âm u những ngày Ninh Vân còn lặng lẽ giữa một bên là dãy Hòn Hèo hiểm trở và một bên là dãy Hòn Đăng như một cánh tay vươn dài ra biển. Đã trải nhiều đời người, đất chưa thật cũ, nhưng cũng không còn mới nữa. Đôi bàn tay người dân Ninh Vân từng cạy cục trồng cây thầu dầu, đem ép ra dầu, thắp lên ánh sáng mà xua đi màn đêm tăm tối và thú dữ; từng gieo hạt, trồng cây trên ghềnh đá mà tìm lấy trái bắp, củ khoai cho cuộc sống hàng ngày.
Rồi súng nổ. Cùng cả nước, Ninh Vân đứng lên kháng chiến, đánh đuổi giặc thù xâm lược. Dấu vết của những cuộc chiến tranh vệ quốc hãy còn hằn in trên từng phiến đá, thớ cây nơi này. Người Ninh Vân có giọng nói khá đặc biệt, vừa đậm chất Ninh Hòa lại vừa pha chút miền biển. Trong câu chuyện cùng chúng tôi, các bậc cao niên ở đây kể, hồi kháng chiến chống thực dân Pháp, Ninh Vân chỉ có khoảng 50 hộ dân, trai tráng chỉ vài chục người. Đến khi chống đế quốc Mỹ, số hộ dân có tăng lên một chút, nhưng vẫn là ít ỏi. Nhưng, người dân ở đây đã khiến giặc thù nhiều phen khiếp đảm.
Còn nhớ, trong những năm 1960-1962, biết người dân ở đây một lòng theo cách mạng, giặc đem tàu há mồm đến bốc dân đi, để tách cá ra khỏi nước. Nhưng, mặc cho súng ống, lưỡi lê, có sáu hộ dân đã kiên cường ở lại, bám làng, bám đất. Sáu hộ dân, mỗi hộ như một thành trì, vững chãi. Một tấc không đi. Một li không rời. Giặc càn như lược chải. Nhưng chúng có chải hết được đất ta đâu. Hơn ai hết, người dân nơi này thấu hiểu mảnh đất của mình, và có cách tránh càn. Cứ vậy, giặc càn thì tránh; giặc rút lại ra. Cho nên, khó là vậy, mà ngay tại miếu Ông Cọp sát ủy ban xã bây giờ đã diễn ra nhiều cuộc họp của Tỉnh ủy, quyết định nhiều công việc quan trọng của phong trào cách mạng tỉnh Khánh Hòa lúc bấy giờ. Có biết vậy, mới thấy được lòng dân nơi này. Biển ngàn đời vẫn vậy, rộng mở và bao dung. Lòng người Ninh Vân cũng vẫn mãi vậy, son sắt và kiên cường.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Ninh Vân vẫn cách biệt với bên ngoài. Vì vậy, bệnh hoạn, sinh nở… luôn là những nỗi lo canh cánh của người dân nơi này. Bởi khi biển yên, đi ghe bập bềnh về tới thị xã Ninh Hòa cũng mất hơn một tiếng rưỡi, còn về tới Nha Trang khoảng hai tiếng. Cấp cứu mà như thể phiêu lưu. Sóng gió bình thường còn đưa được bệnh nhân tới đất liền. Không may, biển động thì… đành ngậm ngùi vuốt mắt đưa về! Cho tới năm 1981, xã Ninh Vân được thành lập từ thôn Đầm Vân, tách ra từ xã Ninh Phước. Thời điểm đó, cả xã cũng chỉ có chưa tới trăm hộ dân, sinh sống dọc theo các làng chài ven biển. Nhà cửa tạm bợ. Ăn uống kham khổ. Trẻ nhỏ không được học hành, vui chơi như chúng bạn. Cho tới giờ, nhắc lại cảnh sống thời ấy nhiều người không cầm được nước mắt. Cách trở như vậy, cho nên người dân Ninh Vân hằng mơ ước có một con đường giao thông kết nối với bên ngoài.
Khởi công năm 2007, đưa vào sử dụng năm 2011, con đường đèo dài 11km quanh co trên sườn núi Hòn Hèo, có độ cao từ 400 đến 500m so với mặt biển, nối liền xã đảo Ninh Vân với xã Ninh Phước được coi là chiếc chìa khóa vàng mở ra nhiều cơ hội mới cho Ninh Vân phát triển. Phải, có con đường này, đời sống kinh tế - xã hội Ninh Vân thay đổi chưa từng có. Người dân mua thật nhiều xe máy, để đi cho đã, cho bõ những ngày mong đợi. Trước nay, ở đây không hề có một tiếng xe gắn máy. Con đường đã cho Ninh Vân thực sự hòa mình vào cuộc sống rộn ràng và khốc liệt thời thị trường, cạnh tranh. Là vậy, nhưng cũng có nhiều người lo ngại rằng khi có con đường, không gian tĩnh lặng hằng có của Ninh Vân sẽ bị phá vỡ. Nghe ra cũng có lý, vì trước giờ, người dân Ninh Vân đi chợ, đi lên núi hái củi vắng nhà cả hàng tiếng đồng hồ hoặc lâu hơn nữa mà chẳng cần phải đóng cửa, đóng nẻo gì cả.
Đáng mừng, cho tới nay, tôi vẫn cảm được những nét chân chất, hồn nhiên của người Ninh Vân trong lòng phố xá xôn xao. Chẳng hạn như trong câu chuyện cùng chúng tôi, anh Phạm Văn Hiệp, một trong những người trồng tỏi thuộc loại chiến của Ninh Vân bảo:
- Nhà tui nhỏ nhỏ vậy chớ biểu đem đổi lấy nhà lầu ở Nha Trang không đời nào tui đổi!
Hỏi tại sao, anh cười hiền:
- Mình sống ở đây quen rồi, về phố ồn lắm. Chịu không nổi. Từ đỉnh đèo nhìn xuống, diện mạo Ninh Vân nay đã khác hẳn. Nhà cửa đã đàng hoàng hơn trước rất nhiều. Lô nhô ngói đỏ nổi bật giữa trời xanh, biển xanh. Phía dưới chân núi là những vạt đất vuông vức trồng tỏi. Có cả sân bóng đá cỏ non xanh mướt.
Bí thư Đảng ủy xã Ninh Vân Trà Văn Hải cho biết, bà con ở đây từ lâu đã có nghề lặn bắt cá tôm. Đặc biệt là nghề lặn bắt tôm hùm con. Do hiện nay con người chưa thể cho tôm hùm sinh sản trong môi trường nhân tạo được, người nuôi tôm hùm thịt phải mua tôm hùm con của ngư dân lặn bắt dưới đáy biển. Trước đây, mỗi một con tôm hùm con chỉ bằng đầu đũa được bán tới 200 nghìn đồng, mà một ngày, có người bắt được đến năm bảy con. Nghề lặn bắt tôm hùm con đã đem lại một khoản thu nhập lớn cho người dân Ninh Vân. Tuy vậy, làm nghề này rất dễ bị tai biến nếu lặn quá sâu mà không có trang bị phòng hộ tốt.
Hiện Ninh Vân có diện tích gieo trồng 50ha, chủ yếu là trồng tỏi, xen canh 2 vụ/năm. Đất ở đây trồng tỏi rất tốt; năng suất, chất lượng đều cao. Có năng suất bình quân từ 3,5 đến 4,5 tấn/ha, đem bán tỏi thịt khoảng 130 nghìn đồng mỗi ký; tỏi giống 180 nghìn đồng, tính ra, một héc-ta tỏi ở đây đem lại thu nhập trên 500 triệu đồng mỗi năm, chưa kể thu nhập từ hoa màu trồng xen giữa các vụ tỏi. Anh Hiệp khoe rằng thu nhập từ cây tỏi đủ trang trải trong nhà; nuôi con ăn học và mua thêm đất để mở rộng sản xuất. Cho nên đây là loại cây trồng được xã rất quan tâm tạo điều kiện đầu tư mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Nói theo cách làm ăn kinh tế, Ninh Vân không chỉ có nhiều tiềm năng về phát triển nông nghiệp, đánh bắt hải sản mà còn nhiều tiềm năng phát triển du lịch với bãi biển đẹp, nước biển trong xanh, khung cảnh núi non hùng vĩ, môi trường trong lành, có nhiều món hải sản tươi ngon. Đến nay, Ninh Vân có nhiều dự án du lịch cao cấp đang hoạt động, thu hút khách du lịch hạng sang như khu nghỉ dưỡng năm sao Six Senses Ninh Vân Bay; Villa An Lâm Ninh Vân Bay... có giá lưu trú tới cả nghìn USD mỗi đêm.
Đêm nay trăng sáng. Tôi cùng người lái ghe già cho ghe chạy thật chậm vòng quanh Ninh Vân. Ông lão đưa tôi cầm lái. Chốc chốc lại nhắc phải giảm ga và để ý tránh cho khéo những chiếc phao lưới của bà con. Từ ngoài biển nhìn vào, Ninh Vân lặng lẽ nép mình dưới chân Hòn Hèo đầy mây phủ.
- Chỗ có ngọn đèn sáng kia là nhà tưởng niệm liệt sĩ của xã đó!
Theo tay chỉ của người lái ghe, tôi nhìn về phía ủy ban xã Ninh Vân. Những đốm sáng đỏ ửng ấy cứ như một ngọn hải đăng. Vâng, tôi nói hải đăng theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Nơi ấy, ghi tên hai mươi lăm người con Ninh Vân kiêu dũng đã hy sinh vì quê hương, đất nước. Còn phía xa xa trong chân núi Hòn Hèo kia là nơi thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh và đồng đội anh đã vinh quang nằm xuống.
Khi chiều, men theo con đường quanh co trên triền đồi, tôi tìm đến bia tưởng niệm, nơi thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh cùng đồng đội anh đã anh dũng chiến đấu và hy sinh. Khi tôi đến, ở đó đã có mấy cháu học sinh đang quét dọn, tưới tắm hoa cỏ. Tấm bia đá đơn sơ, giản dị ghi:
Nơi đây, ngày 1/3/1968, tàu 235 Hải quân nhân dân Việt Nam làm nhiệm vụ vận chuyển vũ khí chi viện cho chiến trường khu 6 đã chiến đấu với bảy tàu chiến và hai liên đoàn biệt động Mỹ, ngụy; vẫn thả hàng an toàn và kịp thời hủy tàu. 14 cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh. Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh được Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Sử sách hãy còn ghi: Tối ngày 29/2/1968, tàu C235 di chuyển đến vùng biển Nha Trang, chuyển hướng vào bờ.
Phát hiện tàu ta, địch lập tức huy động nhiều tàu chiến bao vây, hòng bắt sống. Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh bình tĩnh, khéo léo điểu khiển tàu đến được bến Ninh Phước và thả hàng xuống nước. Sau đó, anh cùng thợ máy Ngô Văn Thứ ở lại trực tiếp điểm hỏa bộc phá hủy tàu. 2 giờ 40 phút, ngày 1/3/1968, một cột lửa bùng lên, kế đó là một tiếng nổ dữ dội, chấn động tới tận thành phố Nha Trang. Sức công phá khủng khiếp của khối thuốc nổ khiến con tàu C235 đứt làm đôi, một nửa chìm xuống đáy biển, nửa còn lại văng lên nằm trên lưng chừng núi Bà Nam, nơi tôi đang đứng. Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh anh dũng hy sinh cùng mười ba đồng đội, khi anh đang ở tuổi ba mươi lăm.
Trong lờ mờ hương khói, tôi thầm đọc tên tuổi của mười bốn người con đến từ khắp mọi miền đất nước. Các anh không sinh ra cùng một ngày. Nhưng đã cùng nhau một ngày tạc vào lịch sử một chiến tích oai hùng như một huyền thoại thời hiện đại. Dấu tích con tàu vẫn còn đây. Những mảnh vỡ con tàu giờ không còn là những khối sắt vô hồn, mà đã trở thành chứng nhân - chứng nhân của trí thông minh tuyệt diệu, của lòng quả cảm vô biên và đức hy sinh cao cả của dân tộc Việt Nam cho cuộc chiến vì chính nghĩa; đã thành khúc tráng ca bất tử của những người giữ nước trên vùng biển Ninh Vân, Hòn Hèo.
Bây giờ, ở Khánh Hòa, trên quần đảo Trường Sa, đã có đảo mang tên người anh hùng Nguyễn Phan Vinh, ngày ngày được quân dân chăm chút dựng xây. Và ngay nơi anh hy sinh, trên mảnh đất Ninh Vân này đã có một ngôi trường cấp hai khang trang mang tên Nguyễn Phan Vinh, đứng ngay bên bờ biển quê hương lồng lộng gió. Trường được đưa vào hoạt động từ đầu năm học 2008-2009. Thực hiện một trong năm nội dung chương trình Trường học thân thiện, học sinh tích cực, nhà trường thường xuyên tổ chức cho các em học sinh tìm hiểu về Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Phan Vinh, về đoàn tàu không số, về đường mòn Hồ Chí Minh trên biển... Hàng tuần, các em học sinh, đội viên thay nhau đến bia tưởng niệm chăm sóc, hương khói. Chợt nhớ, trên tờ bích báo lớp 8A trường Nguyễn Phan Vinh, một học sinh viết ngay ngắn:
Ninh Vân quê em có Hòn Hèo xinh tươi... Phải. Các em có quyền tự hào về điều đó.
Bây giờ tôi về lại Ninh Vân trên con đường quanh co trên dãy Hòn Hèo mây phủ. Đi trên đèo, nhìn xuống bên dưới là biển xanh ngăn ngắt và những bãi cát trắng tinh. Có rừng. Có biển. Cảnh tượng ngoạn mục vô cùng. Bây giờ đang là mùa mưa, cây cỏ mướt mát, xanh tươi; nhiều đoạn, con đường đi giữa hai hàng cây rợp bóng. Và, hoa ngũ sắc trải dài ngút ngát, sắc hương nồng nàn. Chỉ mới mấy năm, trở lại, từ đỉnh đèo nhìn xuống, tôi đã thấy diện mạo Ninh Vân khác hẳn. Lô nhô ngói đỏ nổi bật giữa nền trời xanh, biển xanh. Phía dưới chân núi là những vạt đất vuông vức trồng tỏi xanh rờn. Có cả sân bóng đá cỏ non xanh mướt. Cảnh vật như một bức phối màu đầy sức sống.
Sáng nay, 21/10, cùng cả nước, Khánh Hòa tổ chức kỷ niệm 55 năm ngày mở đường Hồ Chí Minh trên biển. Địa điểm con tàu C235 hy sinh, từ năm 2014, đã được xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia. Dịp này, Khánh Hòa vừa kịp khánh thành công trình nâng cấp khu tưởng niệm, di tích lịch sử tàu C235 và bia lưu niệm tinh thần chiến đấu, hy sinh anh dũng của cán bộ, chiến sĩ tổ công tác HP19 làm nhiệm vụ đón tàu không số tại bến Hòn Hèo.
Những ngày này, đến Ninh Vân có thể cảm nhận được một không khí, một tình cảm nồng ấm mà người dân nơi này dành cho những người đã ngã xuống. Ninh Vân rộn ràng cờ hoa. Người lớn, trẻ em, cùng chung tay dọn dẹp, trang trí cho khu di tích thêm gọn, thêm đẹp. Hoa trái tươi tắn. Trầm hương ngào ngạt. Men theo con đường quanh co trên triền đồi, tôi tìm đến bia tưởng niệm, nơi thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh cùng đồng đội của anh đã anh dũng chiến đấu và hy sinh. Khi tôi đến, đã có rất nhiều cháu nhỏ học sinh đang quét dọn, chăm sóc hoa cỏ. Phía trước, biển Ninh Vân lộng gió. Nơi này đây, con tàu C235 đã đến, và ở lại. Tôi cố hình dung hình ảnh con tàu lừng lững đi vào đây trong vòng vây của giặc thù; thả hàng và anh dũng hy sinh; và gọi đó là khúc ca bi tráng trong cuộc chiến giành độc lập của dân tộc chúng ta.
Tàu C235 là một trong những con tàu hoạt động hiệu quả trên đường Hồ Chí Minh trên biển huyền thoại. Thời đó, giặc thù đã tìm đủ mọi cách ngăn chặn con đường vận tải trên biển của chúng ta. Bởi chúng đánh giá đây là con đường cực kỳ nguy hiểm. Nhưng, qua bao nhiêu bủa vây, bao nhiêu thủy lôi, tàu chiến, đoàn tàu không số vẫn cứ lặng lẽ mà kiên cường vượt đại dương mịt mùng hàng nghìn hải lý mà chi viện kịp thời, hiệu quả cho chiến trường miền Nam. Viết về sự kiện này, báo chí chính quyền Sài Gòn lúc ấy đã dành những cụm từ đầy thán phục như gan góc, thiện chiến, nổ súng đến viên đạn cuối cùng, hy sinh với con tàu…
Tôi đã nghe nhiều người nhắc tới những bức thư của người anh hùng Nguyễn Phan Vinh gửi cho bạn thân của mình là ông Trần Phong, nguyên Quyền đoàn trưởng Đoàn 125 Hải quân, nay là Lữ đoàn 125 anh hùng. Có người còn cẩn thận chép vào sổ tay những đoạn như:
… chúng ta phải là những chiếc cầu chì, vui vẻ và lạc quan mà nhận lấy công tác ở những nơi nguy hiểm nhất. Và khi cần thiết ta hy sinh sinh mạng mình cho Đảng, cho nhân dân…
Hoặc:
Tạm gác lại những tình cảm riêng tư để dồn cho điều duy nhất đó là bước tới và xông vào cuộc cách mạng vĩ đại, với niềm tin vững chắc vào thắng lợi…
Anh đã viết, và đã làm như vậy, với lý tưởng cao đẹp, tinh thần lạc quan và một niềm tin chắc thắng.
Tại khu tưởng niệm, chúng tôi được gặp ông Nguyễn Bá Cường, nguyên Bí thư Huyện ủy Ninh Hòa, nay là thị xã Ninh Hòa. Ngày tàu C235 hy sinh, ông là y tá Trạm xá Hòn Hèo. Ông kể, có tới hơn nửa số thành viên tàu C235 bị thương và đều trong tình trạng kiệt sức nặng. Trong điều kiện rất khó khăn, Trạm xá đã hết sức cứu chữa, bồi bổ sức khỏe rồi tìm cách liên lạc đưa các anh về căn cứ. Bà Phạm Thị Hường, vợ ông Cường, khi đó đang làm việc tại bến K67, đóng tại Ninh Vân, trực tiếp chăm sóc năm chiến sĩ sống sót một cách kỳ diệu sau hơn cả chục ngày đêm chống chọi với thương tích, đói khát. Trong cuộc sống yên bình hôm nay, hàng năm, cứ đến ngày 1/3, vợ chồng ông Cường, bà Hường lại thành kính làm giỗ cho các anh ngay tại nơi tàu C235 hy sinh.
Những ngày này, đến Ninh Vân có thể cảm nhận được một không khí, một tình cảm nồng ấm người dân nơi này dành cho những người đã ngã xuống. Ninh Vân rộn ràng cờ hoa. Người lớn, trẻ em, cùng chung tay dọn dẹp, trang trí cho khu di tích thêm gọn, thêm đẹp. Ai ai cũng nói về công việc với niềm tự hào không giấu được. Hoa trái tươi tắn. Hương hỏa trang nghiêm. Ngày 1/3 hằng năm, Đoàn thanh niên xã Ninh Vân tổ chức cho thanh thiếu niên trong xã đến đây dâng hương, tưởng niệm. Mỗi khi địa phương có hoạt động về nguồn đều chọn khu di tích này làm nơi tổ chức.
Bí thư Đảng ủy xã Ninh Vân Trà Văn Hải cho biết:
- Từ năm 2016, khu tưởng niệm tàu C235 đã trở thành điểm đến tham quan, học tập của đông đảo người dân, du khách gần xa, trong đó có cả khách nước ngoài. Một trong những ước nguyện lớn nhất của bà con ở đây là trục vớt phần còn lại của con tàu C235 hiện đang còn nằm yên dưới đáy biển Ninh Vân; gắn với các công trình hiện có mà xây dựng thành một quần thể di tích giàu tính thuyết phục, truyền tới mai sau những câu chuyện lịch sử oai hùng của dân tộc. Được như vậy, người dân Ninh Vân mừng lắm!
Bí thư Trà Văn Hải chia sẻ.
Trời chuyển mưa sớm. Tôi vội chia tay anh em ở xã. Bởi, cứ muốn được nhìn Ninh Vân thêm một lần nữa từ đỉnh đèo, trước khi làn mưa che mờ khuất.
Ninh Vân - Nha Trang, tháng 10 năm 2021