Rời bến đò Vạn Giã, con đò nhỏ chở lỉnh kỉnh những gạo, mắm, vật dụng cho sinh hoạt con người và thức ăn cho tôm hùm ì ạch hướng mũi ra cửa vịnh Vân Phong. Chừng như nặng lắm, máy nổ xịt khói đen ngòm cả mặt nước mà chiếc ghe chỉ nhích được từng chút một. Có một quãng đường chừng mươi cây số mà phải mất hơn cả buổi trời, con đò mới đưa tôi ra tới bè nuôi tôm hùm của ông Bốn Ất, một người bạn cũ. Bè neo trong khu vực vịnh Vân Phong, rộng và kín gió. Bốn Ất chiêu đãi tôi mấy con cá dìa bắt dưới rọ lên đang giãy đành đạch, đem nấu lá giang rừng, nhắm cùng rượu gạo. Bạn tôi cứ xuýt xoa không ngớt:
- Ngon chi mà ngon lạ!
Bốn Ất lấy ghe đưa chúng tôi về thôn Xuân Ðừng. Ông bảo, trước kia, muốn ra Xuân Ðừng, duy nhất chỉ có đường biển. Nay, đường nhựa đã về tới thôn Ðầm Môn, có thể chạy xe về Xuân Ðừng được rồi. Ngồi ghe chừng tàn vài điếu thuốc, Xuân Ðừng dần hiện ra sau làn khói sóng lờ mờ, trong bóng chiều tím sẫm đang đổ nhanh xuống mặt biển. Xa xa, đã thấy mấy nếp nhà co ro, nép mình dưới chân động cát, trầm mặc bên những rặng dừa già nghiêng bóng. Ấy là nơi cư trú của một tộc người có tên gọi rất lạ: Ðàng Hạ. Họ sống gần như tách biệt trong một dải đất hẹp, sát bên mép nước biển, dưới chân núi Hòn Ông. Biệt lập. Lặng lẽ. Và nhiều ưu tư.
Ông Bốn Ất bảo đã nghe rất nhiều câu chuyện về nguồn gốc người Đàng Hạ ở đây, nhưng không biết đâu là xác thực. Duy có điều khẳng định là người Đàng Hạ rất tốt bụng, ai có việc gì cần kíp, bà con ở đây hết lòng giúp đỡ. Nhưng, người Ðàng Hạ là ai, từ đâu đến, đến từ bao giờ, vì sao lại đến nơi này... là những câu hỏi cho tới nay vẫn còn bỏ ngỏ. Chỉ biết rằng, Ðàng Hạ là tên gọi để phân biệt họ với những tộc người thiểu số sống trên núi cao, có người gọi là Đàng Thượng. Trước kia, giáo sư sử học Trần Quốc Vượng gọi họ là người Hẹ. Còn theo nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Trần Việt Kỉnh, có lẽ, do là vùng đất biển như Vạn Thạnh ở đây, âm A thường bị đọc biến đi thành AE, chẳng hạn như BA được đọc là BA-E; cho nên, HẠ được đọc thành HA-Ẹ.
Trước khi đi ra Xuân Ðừng, tôi được nghe kể khá nhiều những câu chuyện về người Ðàng Hạ. Có những chuyện rất vui. Cũng có những chuyện nghe ra rất đỗi ngậm ngùi. Ai đời, sống ở biển bao đời nay mà người Ðàng Hạ không hề biết làm lưới; không hề biết đánh cá. Họ chỉ biết lên núi đá Khải Lương, Ninh Ðảo chặt củi, đốt than rồi mang ra chợ đổi lấy gạo, mắm muối, quần áo, thuốc men... Mà than củi thì giá trị kinh tế có nhiều nhặn gì cho cam. Thu nhập quá thấp, cho nên, họ không có ý niệm rõ ràng về những bữa cơm gia
đình. Ðói đâu, ăn đó. Có gì, ăn nấy. Nhiều hộ gia đình ba, bốn nhân khẩu mà chỉ có vài cái quần lành lặn. Người ở nhà phải nhường quần cho người có việc phải đi ra ngoài. Tưởng ấy là những câu chuyện tiếu lâm, thêu dệt nên cho thêm phần ly kỳ, nào ngờ, trò chuyện cùng Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Vạn Thạnh Trương Thái Hùng, anh bảo, đó là chuyện có thật một trăm phần trăm về đời sống người Ðàng Hạ những năm trước đây.
Vào tới thôn Xuân Đừng, người đầu tiên tôi gặp là em Ðinh Văn Thành, con trai lớn của ông Ðinh Văn Năm, người Ðàng Hạ đầu tiên nhảy núi từ năm 1969, làm liên lạc cho cách mạng trên chiến khu. Thành có nước da đen bóng, tóc xoăn, trán ngắn, môi dày. Anh Hà Sơn, đồng nghiệp tôi ở Báo Khánh Hòa, ra với Xuân Ðừng từ năm 1996, có viết:
Ðôi mắt người Ðàng Hạ có màu nâu đen, sâu thăm thẳm; chứa chan hoang dã và đượm buồn.
Tôi nhìn Thành hồi lâu. Mắt vẫn nâu đen; vẫn sâu thăm thẳm. Nhưng, nét hoang dã và đượm buồn ngày nào giờ dường đã có phần vợi đi. Thành dùng điện thoại di động khá thành thạo. Ở những nơi khác, dùng điện thoại là chuyện rất bình thường. Còn ở đây, điện thoại di động đã như một hiện thân nhiệm màu của sự kết nối, dẫn truyền ánh sáng văn minh về nơi xóm nhỏ xa xôi, cô quạnh. Có người mách nhỏ tôi: Thành không biết chữ. Thoạt đầu, tôi không tin. Nhưng, quả thật, tôi thấy Thành lưu tên tôi vào máy điện thoại di động bằng một ký hiệu gì đó mà chỉ có anh mới có thể hiểu được. Từ lớp người tuổi chừng trên dưới bốn mươi như Thành trở về trước, người Ðàng Hạ không mấy ai biết chữ quốc ngữ. Chữ viết của người Ðàng Hạ giờ không còn ai biết tới nữa đã đành, tiếng nói riêng của họ cũng không còn nữa. Nhiều cụ già ở đây bảo, con cháu bây giờ không biết viết, biết nói tiếng mẹ đẻ của mình, chỉ biết tiếng của người Kinh thôi, mà chỉ có nghe, nói; không đọc, không viết được.
Theo cuốn Người Hẹ - Văn hóa tộc người của tác giả Trần Việt Kỉnh, đến khoảng cuối năm 1990, người Ðàng Hạ nơi đây chỉ có 36 nhân khẩu, sống trong bảy nóc nhà. Gọi là nhà, kỳ thực, ấy là những túp lều trên cát, được dựng bằng hai mảng lá cây lơ thơ ghép lại. Còn tác giả Trần Ngọc Quang, trong tạp chí Thông tin cuộc sống số 2/1989 của Trung tâm Cổ động tỉnh Phú Khánh mô tả:
Người Ðàng Hạ da đen, tóc quăn, mày rậm, con ngươi vàng. Họ cùng nhau thành lập làng riêng; nhà cửa, tiện nghi sinh hoạt sơ sài; không biết tích lũy, không có ngày Tết; chết thì quấn chiếu đem chôn; trai gái ưng nhau thì cứ về ở với nhau, không có nghi lễ cưới hỏi gì. Người Ðàng Hạ không biết làm ruộng trồng lúa nước, không biết đi biển; không biết nuôi gia súc; không có nghề thủ công; không có ngôn ngữ riêng cho nên các nhà nghiên cứu rất khó tìm ra được một nét văn hóa nào đặc trưng của họ.
Ôi, thật vậy ư? Sao toàn những con số không nghiệt ngã? Mà, nghiệt ngã nhất vẫn là mấy chữ: Rất khó tìm ra được một nét văn hóa nào đặc trưng của họ.
Lịch sử người Ðàng Hạ bây giờ chỉ được hình dung qua những câu chuyện kể. Thời gian lạnh lùng phủ một lớp bụi mờ trên gia phả vốn đã rất mông lung, ảo huyền của họ. Ðến nỗi, chính họ cũng không thể biết được đích thực nguồn gốc của mình. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, người Ðàng Hạ có mang trong mình chút tính chất Nam Ðảo; đến đây, sở dĩ họ hòa nhập được với người bản địa là nhờ có chung hệ ngôn ngữ Môn - Khmer và văn tự Phạn (Sanskrit). Nhưng, giả thiết vẫn chỉ là giả thiết. Chuyện kể lại, tự thuở trước, có mấy chiếc thuyền buôn, không rõ thuộc quốc tịch nào, bị bão biển nhấn chìm trên vùng biển Khánh Hòa. Một số ít người trong số họ may mắn sống sót, trôi giạt vào vùng đất hoang sơ này. Không còn cách nào về lại quê hương, họ đành chọn nơi đây làm chốn nương thân, cùng nhau lập nên xóm nhỏ Xuân Ðừng bây giờ, thuộc xã Vạn Thạnh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa.
Tương truyền, Chúa Nguyễn bị quân Tây Sơn rượt đuổi gắt gao, chạy dạt vào bán đảo này và được dân chúng bảo bọc, nuôi dưỡng. Biết ơn, Chúa muốn ban thưởng, nhưng, hỏi ra mới biết, người Ðàng Hạ ở đây chưa từng có... họ. Chúa bèn ban cho người Ðàng Hạ mang họ Ðinh. Hỏi tại sao Chúa Nguyễn không ban cho các họ khác như Lê, Lý, Nguyễn, Trần... mà là họ Ðinh, người Ðàng Hạ chỉ biết... cười. Vô tư làm vậy! Sinh thời, cụ Ðinh Mìn, một người cao tuổi của xóm Xuân Ðừng khẳng định, làng có giữ được nhiều sắc phong của vua, chúa; trong đó, có một sắc phong rất đặc biệt về việc Chúa ban họ Ðinh cho người Ðàng Hạ. Do chạy loạn, không mang theo ấn tín cho nên Chúa Nguyễn dùng bàn tay mình nhúng vào mực rồi in lên bản sắc phong. Không may, qua một cơn hỏa hoạn, làng bị cháy nặng, nhiều bản sắc phong, trong đó bản có dấu tay Chúa Nguyễn in mực cũng bị cháy mất. Vậy là trắng tay!
Câu chuyện đào cát lấy nước ngọt ngay sát mép nước biển ở Xuân Ðừng cũng được lý giải bằng tích xưa: trong lúc quẫn bách, Chúa Nguyễn cầu khấn thần linh xin được giúp đỡ thức ăn, nước uống. Tức thì, ngoài khơi có một luồng cá lớn dạt vào. Còn trên bãi cát, cách mép nước biển chừng vài bước chân, binh sĩ đào xuống một hố nhỏ, nước ngọt trào ra lênh láng, tha hồ mà ăn uống, tắm giặt. Cho nên, sống sát mép nước mặn là vậy nhưng lâu nay, không phải đào giếng mà người Ðàng Hạ vẫn có nước ngọt sinh hoạt thoải mái.
Ấy là những câu chuyện kể lại. Hiện ở Xuân Ðừng vẫn còn miếu thờ Chúa Nguyễn. Và, ngay tại bãi biển, khi nước triều rút ra, moi một hố nhỏ trên bãi cát, ta sẽ có một giếng nước ngọt ngon lành.
Cũng trong cuốn Người Hẹ - Văn hóa tộc người, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Trần Việt Kỉnh viết:
Những cái nhà nhỏ bé, ọp ẹp, lá cỏ xù xì như những cái tổ chim nằm trên cát trắng của người Ðàng Hạ làm cho tôi xúc động thực sự về sự nghèo khổ tột cùng của họ.
Theo Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Vạn Thạnh Trương Thái Hùng, cho tới trước ngày đất nước được giải phóng, người Ðàng Hạ sống rất đơn điệu, nghèo nàn; nghèo đến tận cùng của cái nghèo, nghèo đến độ ở mức đời sống vật chất và tinh thần thấp nhất so với nhiều dân tộc thiểu số khác đang sinh sống trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa. Không đường đi, lối lại. Không điện thắp sáng. Không điện thoại. Không nhà cửa. Không đánh bắt. Không canh nông. Không học hành. Không có ngôn ngữ riêng. Không có dáng nét văn hóa đặc thù. Những con số không truyền kiếp, nghiệt ngã tự bao đời cứ đè nặng trên thân phận những người Ðàng Hạ, từ đời này sang đời khác, hết lớp này tới lớp khác. Suốt cả một quãng thời gian quá dài, cái đói, cái nghèo, cái dốt luôn là nỗi ám ảnh dày vò người Ðàng Hạ. Họ sống trầm lặng, ưu tư; đầy tự ti, mặc cảm trong mấy túp lều hoang dại, giữa một bên là tiếng gầm gào của đại dương và một bên là không gian cô tịch, phảng phất chút liêu trai, mộng mị của đồi cát trắng lung linh, huyền ảo trong đêm trăng.
Ðối với người Ðàng Hạ, năm 1999 là cái mốc thời gian thật đáng nhớ. Qua nghiên cứu đời sống người dân ở đây, tỉnh Khánh Hòa quyết định cấp kinh phí xây bảy ngôi nhà cho bảy hộ dân người Ðàng Hạ. Không chỉ vậy, mỗi hộ còn được cấp bốn mươi con tôm hùm giống, một con bò và một số cây điều giống. Có tiền, có con giống, cây giống rồi, nhưng, có một câu hỏi đặt ra: ai sẽ là người xây nhà, nuôi tôm hùm, nuôi bò và trồng cây điều? Hỏi vậy, bởi những công việc ấy đối với người Ðàng Hạ là hoàn toàn xa lạ. Thiếu tá Lê Phạm Chúc, Ðồn trưởng Ðồn biên phòng 358 Ðầm Môn nhớ hoài kỷ niệm những ngày cùng đồng đội về Xuân Ðừng trực tiếp dạy người dân nơi đây học chữ, học kỹ thuật nuôi tôm hùm, học cách đánh cá, trồng cây... Tất cả đều phải làm từ đầu, căn cơ và tỉ mỉ, như một lớp vỡ lòng i tờ thực thụ, đầy bỡ ngỡ và nhiều cảm xúc. Những thầy giáo mang quân hàm xanh lặn lội dạy cho từng trò nhỏ người Ðàng Hạ biết mặt cái chữ, con số. Nhiều khi thầy mải dạy đến trưa xế, không thấy người nhà cho trẻ ăn, hỏi ra mới biết, nhà trò không còn... gạo. Vậy là thầy phải tức tốc chạy về đồn, mang gạo, mang nồi ra, rồi thầy trò cùng hì hụi nấu cơm. Chao ôi, cái ánh mắt đã thèm của lũ trẻ được ăn cơm sao mà khó phai trong ký ức đồn trưởng Lê Phạm Chúc đến vậy! Mỗi lần nhắc tới câu chuyện, ông đều rất xúc động. Giờ thì cả ba đứa con của Thành đều được đi học, trường ở Ðầm Môn, cách nhà sáu cây số. Hằng ngày, Thành và vợ thay nhau đưa đón các con đi học. Thành bảo:
- Em đã không biết chữ rồi. Giờ cố gắng cho mấy đứa nhỏ đi học, chừng nào lo hết nổi thì thôi!
Quyết tâm vậy là tốt, nhưng tôi vẫn cứ lo: Nhỡ đời sống khó khăn, Thành lại buông xuôi theo lối nghĩ cũ...
Lại nói về câu chuyện làm ăn. Sau hơn một năm nuôi tôm hùm, nhiều hộ dân người Ðàng Hạ đã có trong tay vài chục triệu đồng, số tiền mà trước nay họ chưa từng thấy được, dù trong những giấc mơ. Từ đó, không chỉ biết nuôi tôm hùm, nuôi bò, trồng cây ăn trái, người Ðàng Hạ bắt đầu biết mua ghe, sắm lưới; biết học cách tiến ra biển, đánh bắt con cá, con tôm. Câu chuyện làm ăn tưởng chừng rất đỗi bình thường là vậy, nhưng ở đây, sao nghe quá đỗi lớn lao. Rõ ràng, người Ðàng Hạ đã thật sự thay đổi, thay đổi cả tập quán sinh hoạt lẫn tập quán lao động, sản xuất. Cũng từ đó, câu chuyện lên rừng chặt củi, đốt than, cực nhọc vậy mà vẫn cứ đói lay đói lắt ngày nào của người Ðàng Hạ giờ đã dần lùi vào quá khứ.
Nay thì người Ðàng Hạ đã biết ở nhà xây, biết dùng điện lưới quốc gia; nhiều hộ gia đình đã có tàu đánh cá; thanh niên sử dụng rất thành thạo điện thoại di động và đã biết... cưới nhau; trẻ con cũng đã biết mặt cái chữ quốc ngữ mà hát karaoke trôi chảy... Và, điều quan trọng nhất, người Ðàng Hạ đang ngày một tự tin hơn vào bản thân mình trên chính mảnh đất mình đang sống. Ở đó, họ đón nhận được sự bao dung, chia sẻ của cộng đồng; sự quan tâm, giúp đỡ của địa phương. Sự tự tin ấy đã giúp họ có thêm sức mạnh để bước ra khỏi bóng đêm lạc hậu, vượt qua bao nỗi tự ti mà vững chãi bước về phía trước. Nhiều người Ðàng Hạ cảm động nói, nếu không có sự chia sẻ, giúp đỡ của cộng đồng, không biết bao giờ họ mới thoát được cảnh sống hoang dã, đói nghèo. Ðôi mắt Thành, tôi nhìn thêm cho thật kỹ, vẫn thấy ánh lên một màu nâu đen, vẫn sâu thăm thẳm. Nhưng, xem ra, đã vui lên nhiều lắm. Bởi Thành cứ ríu rít kể tôi nghe bao nhiêu câu chuyện về bản thân mình, về gia đình mình và những đổi thay của người Ðàng Hạ. Hồi năm 1996, đã hơn hai mươi tuổi nhưng Thành chưa từng một lần nào rời khỏi thôn nhỏ Xuân Đừng. Hằng đêm, anh cứ đứng thẫn thờ nhìn ánh điện sáng lung linh từ thị trấn Vạn Giã phía trong bờ mà lòng thầm mơ ước được một lần đặt chân tới. Nay, không chỉ có về Vạn Giã, thi thoảng Thành còn đưa cả vợ con vào tận trong thành phố Nha Trang để dạo chơi và mua sắm. Hiện nay, Thành có một chiếc ghe nhỏ đi đánh lưới mành. Tối đi, sáng về. Ra chợ Ðầm Môn bán mớ cá, bữa nào được, trừ tiền dầu mỡ Thành còn khoảng hai trăm nghìn đồng, bữa ít một chút thì một trăm hoặc năm bảy chục nghìn. Gia đình Thành giờ đã có những bữa cơm bài bản, theo đúng ý nghĩa của nó. Phải. Có bữa; có cơm. Không đói đâu, ăn đó; có gì, ăn nấy nữa. Nói nghe đơn giản vậy, nhưng tôi quý vô cùng những bữa cơm ấy! Bởi, để có được điều đó, người Đàng Hạ đã phải trải cả một quá trình đầy gian nan, khó nhọc. Xuân Ðừng bây giờ có nhiều hộ sắm được cả hai chiếc ghe đi đánh lưới. Bên cạnh nhà của tỉnh xây cho, nhiều hộ đã tự xây thêm nhà mới, đã sắm được nhiều xe máy, ti-vi...
Trong câu chuyện, anh em lãnh đạo xã Vạn Thạnh cho biết, theo các nhà nghiên cứu, trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa, ngoài khu vực xóm Xuân Ðừng, hiện người Ðàng Hạ còn sinh sống ở thôn Ðồng Cau, thuộc huyện Diên Khánh; thôn đảo Bình Ba, thuộc thành phố Cam Ranh; xã đảo Trí Nguyên, thuộc thành phố Nha Trang. Nguồn gốc, biểu hiện, tính chất các mặt đời sống của người Ðàng Hạ hiện vẫn là điều bí ẩn, cho nên, tỉnh Khánh Hòa cần sớm tổ chức nghiên cứu một cách kỹ lưỡng, có hệ thống, để xây dựng chính sách làm cơ sở phát triển văn hóa, kinh tế - xã hội cho tộc người này.
Đang dang dở câu chuyện, đột nhiên, Thành bảo:
- Anh đợi em chút xíu!
Nói rồi thoắt ra biển. Một loáng sau đã thấy anh mang về một rổ lớn con hàu giá còn đang sống. Bếp lửa được nhóm lên. Đêm đã về tự lúc nào. Ngoài kia, biển động. Nhưng đêm nay, tôi nghe Xuân Đừng thật ấm. Cội hàu giá cắt lát thật mỏng, vắt chút chanh, chấm mù tạt. Lại rượu gạo. Bạn tôi lại bật xuýt xoa:
- Ngon chi mà ngon lạ!
Đêm chìm sâu. Tiếng con chim bìm bịp cứ miên man, mải miết như tâm tư cố lần về một miền hoài niệm sâu thẳm về cội nguồn của một tộc người nhiều bí ẩn. Truyền thuyết, rồi cổ tích thời hiện đại đã và đang kể tiếp câu chuyện về đời sống lắm truân chuyên của tộc người Đàng Hạ nơi này. Mà, chuyện nghe ra rất đỗi có hậu. Tôi trở mình trên chiếc võng lưới. Vẫn tiếng con chim bìm bịp thao thiết trong đêm thâu. Tôi gọi nơi đây là Xuân Đừng. Nhưng, khi sáng trên ghe, có người lại gọi là Sơn Đừng. Xuân Đừng hay Sơn Đừng? Trong mơ màng, tôi tự nhủ rồi phải tìm cho ra lẽ.
Chúng tôi rời Xuân Ðừng lúc trời vừa hừng Đông, để ông Bốn Ất còn kịp về cho tôm hùm ăn. Từ xa nhìn về, trong ánh bình minh đang rạng, Xuân Ðừng dần hiện ra, ngày một rõ hơn, sáng hơn.
Xuân Đừng - Nha Trang, tháng 1 năm 2015