Người ta nói trơ như gỗ đá để chỉ sự lạnh lùng, vô cảm của một ai đó, trước thế sự, hoặc là một cõi lòng đóng băng, không biểu hiện điều gì ra bên ngoài. Nhưng, thực tế, đá có vô giác, vô tri?
Không phải ngẫu nhiên mà tiếng Hy Lạp có thuật ngữ Lithophone, chỉ hiện tượng đá tạo ra âm thanh; hay là thanh âm của đá. Tôi đã nghe nhiều câu chuyện kể về đá kêu ở Khánh Sơn, một huyện miền núi của tỉnh Khánh Hòa, nơi có độ cao 800 mét so với mặt nước biển, cách thành phố biển Nha Trang chừng 100 cây số về phía Tây Nam. Ở đây, có những phiến đá kêu, người Raglai mộc mạc gọi là goong lu, đá kêu, hoặc khánh đá, có nghĩa là đá kêu như những chiếc cồng, có tên khoa học là Rhyolite. Đá kêu, không theo âm luật nào cả, chỉ có một thang âm riêng biệt, ngẫu nhiên, nhưng có khả năng thể hiện cùng các làn điệu dân ca, sử thi Akhàt Jucar đậm đà bản sắc của đồng bào Raglai trên dải Trường Sơn hùng vĩ.
Chiếm tới hơn 70% dân số của huyện Khánh Sơn, không gian sinh sống của người Raglai truyền thống chủ yếu là núi rừng, địa bàn cư trú hiểm trở, nhiều mối nguy hiểm nên họ nghĩ ra nhiều cách để sinh tồn như xây dựng nhà sàn, dùng đá kêu để xua đuổi thú dữ, tà ma. Từ xưa lắm, người Raglai đã biết sử dụng âm thanh do các phiến đá kêu phát ra để bảo vệ nương rẫy, buôn làng bằng cách treo những phiến đá gắn với những chiếc búa nhỏ bằng đá trên dòng suối. Sức nước chảy làm cho búa gõ vào đá, phát ra âm thanh. Lạ, theo chuyện kể của người Raglai, cũng âm thanh ấy, thú dữ nghe sợ hãi, lánh xa; còn chim muông thì lại ở đâu kéo về, líu lo ca hát. Có lẽ, người Raglai gọi đá kêu là thần linh xua đuổi cái ác; chiêu tập cái thiện, cũng bởi vì vậy.
Tôi quen biết anh Mấu Quốc Tiến từ khi anh còn làm cán bộ tổ chức của Phòng Giáo dục huyện Khánh Sơn những năm 80 của thế kỷ trước. Đam mê tìm hiểu văn hóa dân gian dân tộc Raglai của mình, anh chuyển hẳn sang công tác nghiên cứu. Trong câu chuyện về đàn đá Khánh Sơn, anh nhắc lại truyền thuyết về một chàng trai Raglai dũng cảm, với vũ khí là những phiến đá phát ra tiếng kêu huyền bí, đã dám chiến đấu, đánh đuổi tà ma, đem lại bình an cho dân làng. Người dân nghĩ loại đá này là do ông trời ban cho, nên tôn kính, chăm chút giữ gìn như một bảo vật. Cho nên, anh Mấu Quốc Tiến mới khẳng định đàn đá chính là hồn thiêng của người Raglai. Tiếng đàn đá kết nối cõi dương với cõi âm; nối con người với trời đất, thần linh; nối hiện tại với quá khứ, vị lai… Trong các lễ hội quan trọng của người Raglai như lễ tạ ơn, lễ bỏ mả, lễ ăn mừng đầu lúa mới hay những dịp hội vui của buôn làng, bao giờ đàn đá cũng được đưa ra diễn tấu đầu tiên.
Tôi cứ thắc mắc rằng, người tiền sử không biết nhạc lý, không có phương tiện đo tần số âm thanh, vậy họ căn chỉnh âm của từng thanh đá như thế nào để làm nên một bộ đàn đá hoàn chỉnh? Theo giới nghiên cứu, thang âm của đàn đá Khánh Sơn phỏng theo cao độ của tầm cữ dân ca; có giọng nam, giọng nữ; có giọng trống, giọng mái hòa điệu cùng nhau. Thanh đá dài, to, dày có âm vực trầm; thanh đá ngắn, nhỏ, mỏng thì có âm vực bổng. Có lẽ, chính vì vậy, nghệ nhân đàn đá Bo Bo Hùng mới bảo, mỗi thanh đá có một tâm trạng riêng. Tôi thích từ tâm trạng của ông. Dường như ông muốn nói đá cũng có tình cảm, tâm hồn. Đá kêu, theo một thang âm riêng biệt, tha thiết, trữ tình như những làn điệu dân ca dung dị mà sâu lắng của đồng bào Raglai. Ấy là hồn thiêng nguồn cội. Có giọng mẹ; giọng cha. Có giọng sông; giọng núi. Hết thảy hòa thành lời vọng tự muôn thuở xa xưa của non ngàn; tấu lên những khúc hòa ca nhiều cung bậc của tâm tình người Raglai.
Hiện nay, các nhà khoa học trên thế giới khẳng định đàn đá là một trong những loại nhạc cụ thuộc loại cổ sơ nhất của loài người. Một số tộc người ở châu Phi, Ấn Độ, Trung Hoa cổ… đã phát hiện những thanh đá phát ra âm thanh, nhưng đó chỉ là những chiếc khánh có âm vực đơn, không đủ khả năng diễn tấu như đàn đá Khánh Sơn, Việt Nam.
Chiều buông. Dòng sông Tô Hạp mơ màng trong sương khói. Bên bờ, giữa núi rừng u tịch, tôi nghe tiếng đàn đá ngân vang giai điệu Đàn ơi hát cùng ta của nhạc sĩ Bằng Linh. Anh Mấu Quốc Tiến nhẩm theo ca từ:
…Ơi đàn đá Khánh Sơn Ơi đàn đá Việt Nam
Tiếng nghìn xưa vang vọng
Đến hôm nay lên tiếng Gọi buôn làng nương rẫy
Mừng ngày mới bừng lên…
- Giọng đàn đó chỉ có Bo Bo Hùng! Anh Mấu Quốc Tiến quả quyết.
Người diễn đang ở đâu, mà tiếng đàn nghe gần lắm. Tiếng cao trong trẻo, thánh thót, nghe như tiếng chim ca ríu rít giữa trùng điệp đại ngàn. Tiếng trầm như rừng núi chuyển mưa, rung cây, tróc đá. Tôi nghe tiếng đá như một bản hòa ca của gió cuốn, mây bay; của nước trôi, củi lạc; như những tiếng vọng thâm u của đại ngàn từ nghìn trùng năm tháng.
Lách người qua mấy lùm cây, trước mắt tôi là một không gian mông lung bên bếp lửa liêu trai. Anh Mấu Quốc Tiến kéo tôi dừng lại, để ngắm nhìn một hình ảnh thật đẹp. Bên đàn đá, Bo Bo Hùng dáng đứng, dáng đi uyển chuyển như một con nai rừng. Chân nhịp nhàng cho đôi tay dang rộng, thoăn thoắt. Trong không gian mênh mang âm thanh của đá, có tươi vui lẫn u buồn; có suối khe lẫn ghềnh thác. Tiếng đàn đá của Bo Bo Hùng vọng khắp núi rừng, gọi thần núi yàc chưq, thần rừng yàc dlai và tổ tiên mỏq cơi cùng thức giấc mà lo cho người Raglai có cái ăn, cái mặc và đẻ nhiều con cái. Đá như biết khóc, biết cười cùng Bo Bo Hùng. Đất trời như gửi gắm bao nhiêu tâm tình bí ẩn trong từng thớ đá. Chờ người sẻ chia.
Tôi từng nghe rất nhiều lần Nghệ sĩ nhân dân Đỗ Lộc diễn tấu đàn đá với những bài nhạc Mùa xuân trên thành phố Hồ Chí Minh, Cô gái vót chông, Chào mặt trời mọc… Thanh âm trong trẻo đến nao lòng, dù là những nốt trầm. Có lẽ, bởi vậy mà có lần khi nghe đàn đá, Giáo sư, Tiến sĩ Trần Văn Khê, nhà nghiên cứu văn hóa, âm nhạc cổ truyền Việt Nam lỗi lạc xúc động nói rằng, dường như những thanh đá tưởng như vô tri, vô giác cũng có khi rơi lệ hay mỉm cười. Trong nghiên cứu của mình, ông khẳng định chưa có quốc gia nào trên thế giới có được hai loại nhạc khí thời tiền sử, có ý nghĩa văn hóa nghệ thuật, triết lý sâu xa như trống đồng và đàn đá Việt Nam. Và, ông ca ngợi đàn đá có biểu hiện tâm tư hệt như con người.
Theo tài liệu sưu tập của nhạc sĩ Nguyễn Phương Đông, nguyên Giám đốc Trung tâm Văn hóa tỉnh Khánh Hòa, bộ đàn đá đầu tiên được tìm thấy tại Việt Nam có tên gọi là Ndut Lieng Krak, được nhà dân tộc học người Pháp Georges Condominas khai quật tại Đắk Lắk năm 1949. Ndut Lieng Krak được đưa về Pháp để nghiên cứu và hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Museé de l’Homme, Paris.
Bộ đàn đá được coi là tiêu biểu của Việt Nam gồm mười hai thanh đá kêu có kích thước, hình khối và âm thanh khác nhau được gia đình ông Bo Bo Ren cất giấu tại núi Dốc Gạo, thuộc địa phận xã Trung Hạp, huyện Khánh Sơn từ những ngày chiến tranh khốc liệt. Ông Bo Bo Ren kể, gõ vào thanh đá thì nghe âm thanh vang lên, trong và đanh như tiếng sắt, tiếng đồng. Cùng lúc gõ vào nhiều thanh đá thì âm thanh đan xen, nghe như cãi nhau, rất vui tai. Chiến tranh, bom đạn cày nát núi rừng, nhưng gia đình ông Bo Bo Ren quyết tâm giữ cho bằng được bộ đàn đá quý báu ấy. Các nhà khảo cổ học kết luận: Đây là bộ đàn đá của tộc người Raglai, có niên đại cách nay 2.000-5.000 năm. Trên cơ sở dữ liệu thu thập được về đàn đá, năm 1979, Việt Nam chính thức công bố với thế giới về việc phát hiện bộ đàn đá Khánh Sơn, loại nhạc cụ cổ có giá trị lịch sử, văn hóa nghệ thuật đặc sắc của dân tộc.
Cùng với việc phát hiện các bộ đàn đá, qua khai quật và khảo sát tại núi Dốc Gạo, Khánh Sơn, các nhà nghiên cứu còn tìm ra nhiều dấu tích chứng tỏ người xưa đã chế tác đàn đá tại đây, với nhiều khối đá và mảnh vụn thuộc loại đá phún trào Rhyolit Porphyre.
Nhạc sĩ Nguyễn Phương Đông kể, năm 1979, khi phát hiện và công bố đàn đá Khánh Sơn, ông và nghệ sĩ Hải Đường, Nghệ sĩ nhân dân Đỗ Lộc được phân công luyện tập để biểu diễn báo cáo Bộ Văn hóa - Thông tin. Sau đó, tỉnh Khánh Hòa thành lập đoàn ca múa nhạc dân tộc. Nhạc sĩ Nguyễn Phương Đông được cử làm Phó Trưởng đoàn, và ông bắt đầu hành trình đi tìm đá kêu để chế tác đàn đá biểu diễn. Quả là có duyên, có nghiệp. Ông lặn lội qua núi cao, suối sâu tìm những phiến đá kêu có âm thanh phù hợp cho những bộ đàn. Theo nhạc sĩ Nguyễn Phương Đông, đều có nguồn gốc là nham thạch phun trào, nhưng đá làm đàn thường có hai loại: đá đen, còn gọi là đá sừng, và đá Rhyolit Porphyre - đá có tiếng kêu hay nhất được tìm thấy chủ yếu ở Dốc Gạo, thuộc huyện miền núi Khánh Sơn, tỉnh Khánh Hòa. Đàn đá Khánh Sơn được làm từ đá Rhyolit Porphyre. Đây chính là nét độc đáo, tạo nên sự khác biệt của đàn đá Khánh Sơn so với đàn đá những nơi khác.
Theo nhạc sĩ Nguyễn Phương Đông, những thanh đá nào có vết láng mờ mới chính là đàn đá Khánh Sơn nguyên thủy, bởi nó xuất phát từ đàn đá nước, chỉ đàn đá Khánh Sơn mới có. Ông cho rằng mọi công cụ, nhạc cụ đều xuất phát từ lao động, phục vụ đời sống lao động; tồn tại trong một giai đoạn lịch sử nhất định và có đóng góp nhất định trong đời sống xã hội, đời sống tinh thần của cộng đồng tộc người. Người Raglai lấy đá kêu đem ghè đẽo cho âm thanh giống cồng chiêng, và đánh theo kiểu của cồng chiêng. Vì vậy, đàn đá Khánh Sơn nguyên thủy chỉ đánh được một số giai điệu truyền thống ngắn của người Raglai, không đáp ứng được yêu cầu nghệ thuật hiện đại. Các bộ đàn đá chế tác sau này có thể đáp ứng được các yêu cầu chuyên môn của âm nhạc hiện đại. Theo đó, mỗi phiến đá là một cung bậc, thuật ngữ chuyên ngành gọi là note nhạc. Nhờ đó, đàn đá có thể diễn tấu những bản nhạc hiện đại một cách chuẩn xác.
Tôi nghe các em Tro Thị Nhung và Bo Bo Thị Trang song tấu đàn đá mà vô cùng ngạc nhiên, bởi trong bài diễn tấu có nhiều đoạn chạy âm giai rất tinh tế mà trước nay chỉ thấy ở đàn guitar, piano… Đàn đá giờ không chỉ có hát dân ca Raglai, hát những khúc sử thi Akhàt Jucar tình tứ mà còn có thể hòa tấu cùng các loại nhạc cụ khác như mã la, đàn chapi, sáo tale piloi, kèn bầu… hoặc tấu lên những tiếng chuông thánh thót đêm giao thừa; lời chào mừng năm mới thiêng liêng và xúc động trong độc tấu âm nhạc Tây phương Happy New Year…
Trong hành trình ngót nghét hơn ba mươi năm gắn bó cùng đàn đá của mình, nhạc sĩ Nguyễn Phương Đông đã chế tác hơn 150 bộ đàn đá. Theo ông, để có bộ đàn đá chuẩn, thể hiện được những bản nhạc hiện đại là rất vất vả, kỳ công. Trước hết, phải tìm cho ra loại đá đặc biệt, chỉ ở vùng Khánh Sơn mới có, mà phải là đá phun trào Rhyolit Porphyre mới được. Rồi phải thẩm âm; ghè đẽo các vị trí thanh đá để chỉnh âm sao cho chuẩn note nhạc. Trước đây, thẩm âm bằng tai, nay có máy đo nên công việc dễ dàng, chính xác hơn. Theo ông, nguồn đá kêu ở Khánh Sơn bây giờ đã cạn. Song, ở dưới lớp đất sâu kia, có thể hãy còn rất nhiều đá Rhyolit Porphyre. Và làm sao để giữ gìn và khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên vô cùng quý giá này là một câu chuyện cần được quan tâm.
Cùng với chế tác thành quy trình sản xuất đàn đá theo đơn đặt hàng, nhạc sĩ Nguyễn Phương Đông còn tổ chức đào tạo, hướng dẫn con em người dân tộc Raglai ở Khánh Sơn và Khánh Vĩnh với giáo trình bài bản, khoa học. Ông mong muốn có nhiều bạn trẻ Raglai hiểu biết; biểu diễn được đàn đá để âm vọng nghìn xưa còn lan tỏa đến nghìn sau. Vì vậy, ông dày công biên soạn nhiều giáo trình, bài tập với những tiết tấu, âm vực, giai điệu hiện đại cho đàn đá. Hiện ông cùng một số nghệ sĩ khác đứng lớp đào tạo cho nhiều con em người Raglai địa phương biết chơi đàn đá.
Năm 2020, Ủy ban nhân dân huyện Khánh Sơn tiến hành phục dựng ba hệ thống đàn đá nước nguyên bản của người Raglai; bố trí tại các dòng chảy tự nhiên ở Dốc Gạo (nay là thị trấn Tô Hạp); xã Ba Cụm Nam và xã Thành Sơn. Mới đây, huyện Khánh Sơn đặt hàng nhạc sĩ Nguyễn Phương Đông chế tác thêm mười bộ đàn đá để biểu diễn.
- Việc khôi phục đàn đá nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa, lịch sử trên địa bàn. Chúng tôi quyết tâm đưa đàn đá phổ biến trở lại trong cuộc sống của đồng bào; gìn giữ và phát huy giá trị âm nhạc truyền thống của dân tộc Raglai. Trên cơ sở bảo tồn, địa phương sẽ kế thừa, phát huy giá trị lịch sử, văn hóa đàn đá Khánh Sơn nói riêng và văn hóa của người Raglai nói chung phục vụ phát triển du lịch trong tương lai.
Ông Nguyễn Văn Nhuận, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Khánh Sơn chia sẻ.
Câu chuyện về hai bộ đàn đá Khánh Sơn được công bố với thế giới có những chi tiết rất thú vị. Ông Nguyễn Văn Thiện, Giám đốc Sở Văn hóa - Thể thao tỉnh Khánh Hòa kể lại, năm 1979, sau khi công bố với thế giới về hai bộ đàn đá Khánh Sơn, ngày 16/3/1979, ông Mai Dương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Khánh thời bấy giờ đã trao hai bộ đàn đá cho nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Âm nhạc Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng khoa học đàn đá Khánh Sơn. Hai bộ đàn đá này có ký hiệu A và B, gồm mười hai thanh, khi ráp hai bộ này lại thì tương thích thang âm của một bộ đàn đá lớn mười hai thanh. Đây là trường hợp đầu tiên, duy nhất của toàn quốc. Các đơn vị thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã đem hai bộ đàn đá Khánh Sơn đi giới thiệu, biểu diễn ở trong nước và quốc tế, tạo được sự chú ý của giới nghiên cứu.
Có lần trao đổi cùng một số anh em nghệ sĩ, tôi bày tỏ mong muốn có những công trình nghiên cứu khoa học, hoặc hội thảo có tầm, xác định rõ giá trị, phẩm chất, quy luật phát ra âm thanh của đàn đá cổ. Trên cơ sở đó, có định hướng, giải pháp bảo tồn cũng như chế tác đàn đá một cách chuẩn xác, hiệu quả, vừa giữ được bản sắc vừa nâng tầm đàn đá Việt Nam. Các anh em nghệ sĩ cùng chia sẻ thống nhất với suy nghĩ ấy. Song, cho tới nay vẫn chưa làm được. Việc chế tác đàn đá hiện nay vẫn phụ thuộc vào cảm nhận chủ quan của người thực hiện, chưa theo một nguyên tắc căn bản thống nhất nào.
Trong những ngày rộn ràng kỷ niệm Khánh Hòa 370 năm xây dựng và phát triển, sáng 27/3/2023, tại trụ sở Phân viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam, thuộc Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam, hai bộ đàn đá Khánh Sơn được bàn giao lại cho tỉnh Khánh Hòa. Vậy là châu về hợp phố. Sau 44 năm xa quê, hai bộ đàn đá Khánh Sơn đã trở về với vùng đất mình sinh ra. Cũng theo ông Nguyễn Văn Thiện, hiện tỉnh Khánh Hòa đang tiếp tục hoàn thiện thủ tục, đề nghị Thủ tướng Chính phủ công nhận đàn đá Khánh Sơn là bảo vật quốc gia.
Có điều rất đáng suy nghĩ là đàn đá là một bảo vật, tiếng đàn chính là hồn thiêng của người Raglai nhưng hiện không có nhiều con em người Raglai mặn mà, tâm huyết với nó.
Minh chứng là hiện nay, số người biết chế tác và chơi được đàn đá của huyện Khánh Sơn còn lại chỉ đếm trên đầu ngón tay. Đáng quý, hãy còn có những người như ông Bo Bo Hùng, ngày ngày bên dòng đời ồn ã mà vẫn cứ lặng lẽ say mê thanh âm đàn đá. Bây giờ, tuy đã sử dụng thành thạo nhiều loại nhạc cụ như đàn đá, mã la, đàn chapi, kèn bầu… và thuộc lòng nhiều làn điệu, nhưng ông vẫn tìm học thêm các làn điệu đàn đá cổ xưa. Điều đáng trân trọng nữa là ông luôn nhiệt tình trao truyền lại cho những chàng trai, cô gái Raglai ngọn lửa đam mê âm nhạc truyền thống của dân tộc mình, trong đó có đàn đá.
Sáng nay, Bo Bo Hùng dậy sớm. Ông đánh thức chúng tôi bằng những giai điệu trong trẻo của đàn đá. Núi rừng hãy còn ngái ngủ trong màn sương mờ. Trong dư âm lâng lâng của rượu cần tapai đêm qua, tôi mơ màng nghe thanh âm của đá, của núi cứ vang xa, vang mãi, nhiệm màu như những khúc tự tình Raglai nên thơ, nhiều cảm xúc.
Khánh Sơn - Nha Trang, tháng 5 năm 2023