Biển tháng Ba hiền lành như một đứa trẻ. Ra khơi mà chẳng thấy sóng bạc đầu. Con tàu chỉ khẽ lắc. Đều đều. Trường Sa, nơi tôi chưa từng được đến bao giờ, đang ở nơi tít mù xa, phía vầng trăng mười bảy đang nhô dần lên từ mặt biển. Bây giờ, tôi đã trở thành một người đi biển thực thụ, với những bài học vỡ lòng cấp tốc về hàng hải và lòng ngổn ngang những hồi hộp, bồn chồn mong sớm được đặt chân lên quần đảo Trường Sa.
Chúng tôi xuất phát từ quân cảng Cam Ranh trong một buổi chiều thật yên ả. Có tiếng ve vẳng đưa từ rất xa trên những rặng phi lao im lìm soi mình trên bóng nước. Và trên cảng, những con tàu nằm dài, dường như chỉ thở rất nhẹ trong khoảnh khắc ngơi nghỉ sau bao nhiêu dặm hải trình đầy sóng gió. Chiều êm như ru. Yên bình quá! Những tiếng còi tàu trầm đục cứ lan tỏa, lan tỏa trong thinh không tịch lặng làm cảnh vật càng thêm phần man mác trong bóng chiều đang đổ nhanh xuống cảng.
Quả thật, sắp sửa cho một chuyến đi xa, nghe tiếng còi tàu giục nhổ neo rời bến, lòng người cứ nao nao đến lạ. Biển xanh đến tím. Thỉnh thoảng, sóng lại gợn lên một chút như muốn nói cùng ai đó một điều gì. Cam Ranh với tôi không lạ. Nhưng, đây là lần đầu tiên tôi bước chân lên một con tàu lớn, có tải trọng đến trên nghìn tấn như thế này... Cảm xúc nghe thật lạ. Đất liền dần mờ xa. Giữa biển trời lồng lộng, nơi nào đâu, trên vịnh Cam Ranh này, dấu chân của Bác, người thủy thủ huyền thoại của mọi thời đại đã từng đặt đến? Từ thuở còn đi học phổ thông ở Cam Ranh quê mình, tôi đã được nghe thầy giáo dạy lịch sử kể một cách say sưa về cuộc gặp gỡ Cam Ranh. Chuyện rằng, tại vịnh Cam Ranh này, trên chiến hạm Dumont d’Urville đã xảy ra cuộc chạm trán nảy lửa giữa vị Chủ tịch của một nước Việt Nam hãy còn rất non trẻ với những tên cáo già thực dân đầy rắp tâm. Trong những câu chuyện ấy, có một chi tiết rất lý thú là giữa những hàng quân tề chỉnh, Cao ủy Pháp D’Argennlieu buông lời bóng gió đe dọa:
- Thưa Chủ tịch, ngài đang được đóng khung giữa lục quân và hải quân.
Bác của chúng ta ung dung cười mỉm:
- Nhưng mà Đô đốc biết đấy, chính bức họa mới đem lại giá trị cho chiếc khung.
Bức họa nhiệm màu ấy, từ lúc bước chân xuống con tàu Amiral Latouche Tréville, năm 1911, đến khi trở về vịnh Cam Ranh, từ Paris, sau khi ký xong Tạm ước 14/9/1946, là cả một quãng thời gian dài ngót nghét một nửa đời người. Hai chuyến tàu, một đi, một về, như hai gạch nối kết liền cho những chương thấm đẫm máu, thấm đẫm nước mắt nhưng cũng ăm ắp cười đùa, rộn ràng đồng dao trong thiên niên sử Việt Nam.
Vâng! Bao nhiêu máu đồng bào tôi đã đổ. Để hôm nay, trên con tàu HQ 936, tôi được đi về phía Trường Sa, đi ra đến quần đảo Trường Sa, theo dấu chân của những người con Lạc thuở hồng hoang ngày nào cùng cha ra biển cả mà khai thiên lập địa, mà mở lối sinh nhai. Phải. Những người đồng bào của tôi, trong số một trăm anh em cùng bọc ấy, đã từng đặt chân đến những vùng biển, đảo nơi này từ bao đời nay. Di chỉ hãy còn tinh khôi; hãy còn hùng hồn thắp sáng. Mồ hôi đã đổ ở đây. Xương máu đã rơi ở đây. Cho nên, tôi mới gọi những vùng biển, đảo nơi này là những giọt máu thiêng, mượn lời của người lính, nhà thơ Trần Đăng Khoa.
Đêm nay, trên boong tàu nhìn ra bốn phía chỉ thấy bàng bạc một màu trăng. Trăng lửng lơ treo giữa chừng trời. Trăng lung linh tan trên mặt biển. Tôi ngồi cùng Thiếu tá Bác sĩ Từ Công Tào, Chủ nhiệm Quân y Lữ đoàn 146 trên boong cao. Những ai chưa từng đi biển sẽ chẳng thể hình dung được một cảm giác tuyệt vời trên con tàu đong đưa giữa một biển trăng huyền diệu như thế này. Gắn bó với Trường Sa từ năm 1985 tới nay, bằng chất giọng Quảng Bình, anh Tào kể tôi nghe những câu chuyện về Trường Sa bằng... thơ, những dòng thơ rất mộc mạc, rất chất phác nhưng rất mực chân thành. Ở đó, có tiếng gà gáy bình minh trên con tàu giữa biển. Ở đó, có tiếng chim chích chòe giữa trưa hè nóng hơn nung trên đảo Thuyền Chài. Tên bay. Đạn lạc. Mà gà vẫn gáy sang canh. Gió giật. Mưa cuồng. Mà chim cứ rộn ràng gọi bạn. Trong gian khó, gió giông, cuộc sống vẫn cứ diễn ra thật nhịp nhàng, và hồn nhiên như nó đã hằng có nơi từng góc ruộng làng quê, từng khoảng trời nẻo phố. Người lính mang theo. Hay Tổ quốc, dù ở nơi nào cũng chỉ có một, cũng chỉ là một?
Anh Từ Công Tào bảo rằng đi trên biển Trường Sa mà gặp ngư dân mình thì mừng như thể người nhà. Và người dân gặp mình như được tiếp thêm sức mạnh trên biển khơi quê hương. Đảo Thuyền Chài giờ không nóng nung người nữa, bởi cây xanh đã phủ che. Nhưng, con tàu HQ 931 có tiếng gà gáy bình yên ngày ấy giờ đã hóa hồn thiêng sông núi, đã hóa anh hùng. Đất nước ta thống nhất đã ngần ấy năm mà kẻ thù vẫn buộc ta cầm súng. Dù rằng ta thích hoa. Trước khi tàu nhổ neo lên đường, Đại tá Lê Công Vy, Phó Chỉ huy trưởng Chính trị Vùng 4 Hải quân bảo:
- Đi Trường Sa mà gặp tàu lạ hù dọa thì hãy cứ hết sức bình tĩnh. Ấy là chuyện thường ngày ở... đảo!
Và chúng tôi đã chuẩn bị một tinh thần như vậy, tinh thần sẵn sàng của những người lính. Khi cơm chiều trên boong tàu, một người lính kể tôi nghe chuyện trong một chuyến ra đảo, tàu ta bị tàu lạ lăm lăm chĩa pháo vào, vậy mà trên boong vẫn có một thiếu nữ thướt tha váy áo điềm nhiên ngồi ôm đàn ca hát. Nghe cứ ngỡ là thơ. Nhưng lại thật. Thật một cách lạ lùng trong ranh giới giữa sự sống và cái chết ngắn chẳng tày một lóng tay. Người thiếu nữ ấy giờ đang trên tàu cùng đi với tôi ra Trường Sa chuyến này: ca sĩ Anh Đào, diễn viên kỳ cựu của Đoàn ca múa nhạc Hải Đăng, Khánh Hòa.
Trong ba-lô đi Trường Sa chuyến này, tôi có mang theo cuốn Sổ tay biển đảo Việt Nam của Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương. Những chứng cứ hùng hồn đã khẳng định Nhà nước Việt Nam và nhân dân Việt Nam đã chiếm hữu quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa từ khi nó chưa thuộc chủ quyền của bất kỳ quốc gia nào và đã thực hiện chủ quyền của mình tại đó một cách thật sự liên tục và hòa bình mà không có bất kỳ một sự tranh chấp, ngăn trở nào trong suốt mấy trăm năm. Tôi là người dân Khánh Hòa, cho nên rất tự hào rằng trên bản đồ hành chính tỉnh nhà có một tên gọi thân thương: huyện đảo Trường Sa. Trước khi tách tỉnh Phú Khánh thành hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa, coi Trường Sa là một phần máu thịt của mình, ngày 11/3/1988, Hội đồng nhân dân tỉnh Phú Khánh đã có hẳn một Nghị quyết về Trường Sa, nêu rõ quyết tâm sẵn sàng chi viện, sẵn sàng bảo vệ Trường Sa.
Ấy vậy mà, chỉ mấy ngày sau đó, 14/3/1988, máu đã đổ. Tỉnh Phú Khánh lúc bấy giờ đã cùng cả nước nghe tiếng gọi của Trường Sa mà sẵn sàng; mà chiến đấu, hy sinh. Mãi đến tận bây giờ, ký ức của những người lính đảo có mặt trong cuộc đối mặt một mất một còn ngày ấy hãy còn mới nguyên từng lời nói, từng ánh mắt của những đồng đội thân thương đã ngã xuống. Trong những trận chiến giữ đảo không cân sức, dẫu đã bị thương, người anh hùng Trần Văn Phương vẫn một dạ, một lòng đanh thép:
- Đây là đất của Việt Nam! Chúng bay không được đụng đến! Cho nên, chiến đấu tới hơi thở cuối cùng. Đến khi mắt đã nhắm, tim đã ngưng mà tay anh hùng Trần Văn Phương
vẫn trọn ôm lá cờ Tổ quốc ướt đẫm máu mình. Còn người anh hùng Vũ Huy Lễ cùng đồng đội anh chấp nhận hy sinh, lao con tàu HQ 505 lên đảo Cô Lin. Con tàu bỗng hóa thành một lô-cốt. Lô-cốt của trận mạc. Cũng là lô-cốt của niềm tin. Để những người lính đảo chiến đấu đến cùng. Những câu chuyện như vậy tôi cũng đã từng nghe được, đọc được ở đâu đó. Nhưng hôm nay, giữa biển trời Trường Sa lồng lộng, được nghe chính những người lính cựu trào ở Trường Sa kể lại mới thấy thật sự thấm thía ý nghĩa hai chữ chủ quyền. Bỗng dưng, anh Tào trở nên ngậm ngùi:
- Ông biết không, anh Phương vừa mới cưới vợ tháng 6 năm 1987. Tính đến lúc hy sinh, chỉ được có mấy tháng...
Nói xong, anh im lặng, như dành một khoảnh khắc khải niệm cho một tượng đài bất diệt; mắt dõi nhìn về phía những con sóng nối tiếp nhau cứ đuổi mãi, đuổi mãi về một phía trời xa...
Thinh không vời vợi. Có tiếng vỗ cánh của một con chim lạ nhẹ bay ngang đầu. Máy tàu vẫn đều đều. Mũi tàu xé nước ràn rạt. Đại dương mịt mùng trong khói sóng. Và cứ vậy, đêm dần chìm sâu thăm thẳm.
Tôi định hỏi thăm anh Tào về cuộc sống bây giờ của chị Hoa, vợ anh Phương nhưng rồi lại thôi. Dường như anh đang chìm trong một dòng suy tưởng gì lung lắm. Hay cũng giống như tôi? Cũng đối diện với thật nhiều câu hỏi như tôi? Rằng: Tại sao trong thời bình, lại có thêm những người vợ trẻ đang giữa tuần trăng mật mà phận gái đã vội thành quả phụ? Tại sao đang yên vui, bỗng có thêm những đứa con thơ chào đời chưa kịp nhìn thấy mặt cha mà đầu xanh đã vội trắng khăn tang? Cho nỗi mẹ héo gầy? Cho nỗi con côi cút? Quả thật, ấy là những nỗi đau khó có thể nguôi ngoai!
Biển vẫn lặng lẽ. Dường như sau những cơn gầm gào lúc đớn đau dữ dội, biển lại dồn nén hết thảy dưới những tầng sâu, cho nỗi đau dần hóa thành trầm tích, muôn đời bí ẩn. Đợi chờ một ngọn gió lên. Chờ gió lên.
Từ lâu, tôi đã nghe nhiều về cây phong ba. Trường Sa có cây phong ba. Cây phong ba gắn bó với Trường Sa. Nhạc sĩ Hình Phước Long đã đưa cây phong ba vào ca từ bài hát của mình trong tâm sự người lính đảo, rằng:
Đời anh như cây phong ba Vững vàng giữa đảo ngàn xa...
Còn bây giờ, trước mắt tôi, không chỉ có cây phong ba bằng xương, bằng thịt mà còn có cả một loài cây mang tên gọi dữ dội cũng chẳng kém: bão táp. Những người đi biển vẫn quen gọi Trường Sa là quần đảo bão tố. Vì vùng biển này do có điều kiện địa lý đặc biệt nên thường xuyên có giông bão. Nơi đây, giông, bão thường xuyên còn hơn cơm bữa. Nhưng, cho hay, giữa nơi giông bão như vậy mà những cây phong ba, cây bão táp lại vẫn cứ ngăn ngắt xanh. Tôi không tin rằng phong ba, bão táp là tên thật của những loài cây hết sức lạ lùng này. Có lẽ, ấy là sự đồng vọng và tin cậy của những người lính đảo.
Hôm lên đảo Trường Sa Lớn, tôi thấy những đọt cây bàng vuông xơ xác, chỉ trơ cành, hỏi ra mới biết mùa này chúng đang chuẩn bị nảy lộc. Bởi trong mùa gió động, cây không ra nổi lá. Trung tá Nguyễn Văn Thuận, đảo trưởng bảo rằng trồng cây trên đảo Trường Sa ngoài cái khắc nghiệt nhất là nước tưới còn phải vượt qua được một điều khắc nghiệt khác nữa là phải che chắn gió cho cây. Gió ở Trường Sa dữ dằn và phóng đãng. Người không quen đi không muốn vững. Vậy mà, ngọn cây phong ba vẫn vươn mũm mĩm như đọt muống vườn nhà. Còn cây bão táp thì chỉ cần một ít rễ bám vào san hô là thân đã có thể vững vàng bám đảo, lá chĩa thẳng lên trời, dẫu có giữa mưa tuôn, gió giật. Và, bất chấp gió bão, cây phong ba, cây bão táp, cây nào cũng đều có hoa rất đẹp.
Phong ba ư? Bão táp ư? Nghe dữ dội quá! Ở đâu, trên thế gian này lại có những loài cây mới nghe tên đã thấy dữ dằn đến như vậy? Hồng Nguyên, chiến sĩ ở Cụm chiến đấu 1 đảo Trường Sa Lớn bảo rằng khi hai loại cây này bám đảo thì khó lòng gió bão nào có thể quật ngã. Cây thì như vậy. Còn những người lính? Đột nhiên, tôi hình dung ra rằng, mai này, hễ nhắc tới cây phong ba, cây bão táp là người ta lại nghĩ ngay tới đất và người Trường Sa, nghĩ ngay đến hình ảnh một người can trường ưỡn ngực điềm nhiên đón lấy những cơn gió dữ. Rồi lại tự đặt câu hỏi rằng, những thế hệ cháu con nối tiếp không biết phải gọi ý chí của những người lính Trường Sa hôm nay bằng những danh xưng gì cho xứng tầm? Chia sẻ cùng tôi suy nghĩ ấy, chiến sĩ Hồng Nguyên cười hiền hậu:-
Lính Trường Sa! Thế là đủ! Là vinh hạnh một đời người.
Chuẩn bị đến giờ đổi gác, anh chào và chiêu đãi chúng tôi một nửa quả xoài còn lại mà vợ anh vừa gửi vào từ tận quê nhà xa lăng lắc.
- Đây thật là những miếng xoài mang nặng nghĩa phu thê!
Một người trong chúng tôi vừa nói vừa cười, vẻ như nửa đùa, nửa thật. Nhưng, dường như tôi nghe thấy phần thật nhiều hơn. Bởi mặc dù Hồng Nguyên cầm xoài day tận tay từng người một nhưng chẳng hiểu sao, tôi thấy ai cũng cầm lên rồi ái ngại... đặt xuống.
- Đã bốn năm rồi, em ở Trường Sa.
Hồng Nguyên nhỏn nhẻn, cười cười, rồi bước lẫn vào bóng đêm lộng gió. Tôi cứ hết nhìn cây phong ba, cây bão táp, rồi lại nhìn những người lính đảo quanh mình. Các anh đều còn quá trẻ.
Đảo là nhà
Biển cả là quê hương.
Tâm tư ấy của những người lính đảo tôi bắt gặp được gần như mọi nơi trên quần đảo Trường Sa. Nhưng, chủ nhà ở những đảo chìm như bãi đá Gạc Ma, Len Đao, Cô Lin thì quả là đặc biệt. Nhà đứng chông chênh giữa biển. Không một chút đất thừa ra. Những lần giông gió, sóng cứ trùm lên, rồi cuốn phăng qua cả đảo. Nhiều người nói một cách hình ảnh rằng lính ở đảo chìm khi leo lên giường ngủ cứ việc thò chân xuống là có thể rửa chân bằng nước biển. Nghe ra cũng chẳng ngoa. Đại úy Trần Tất Thắng, đảo trưởng, còn rất trẻ nhưng trông anh lớn hẳn so với tuổi tác của mình. Anh bảo rằng ở đây, tàu, máy bay lạ qua lại dòm ngó rất nhiều, lắm lúc còn giở trò hăm dọa. Anh em phải canh phòng rất cẩn mật. Rồi anh khoe, ấy vậy mà đêm giao thừa năm nào anh em cũng phân công nhau canh gác cẩn mật để số còn lại hái hoa dân chủ, ca hát, pha trò, nghe lời chúc Tết của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước.
Ở đây, tôi thấy một cái thang lên gác cũng kiêm luôn là một xà đơn cho bài thể dục buổi sáng của lính đảo. Một cái bát thủng cũng xao xuyến đong đưa mấy nụ hoa mười giờ trong phòng ở đơn sơ. Sát mép nước mặn vẫn xanh ngắt mấy ngọn rau muống, rau sam trong những chậu đất bé tí. Ở những đảo chìm thế này, đất trồng cây phải đem từ đất liền ra. Nước ngọt rất hiếm. Ở đâu, người ta nói quý như vàng. Còn ở đây thì quý như đất, quý như nước. Ở đảo chìm, cho nên người lúc nào cũng nghe rin rít, mằn mặn, tanh tanh. Một lính trẻ hóm hỉnh:
- Da dẻ thế này cho mối mọt khỏi ăn!
Nơi miền biên đảo, dường như cái gì cũng phải dành dụm, chắt chiu. Chỉ có mỗi không gian, thời gian là phóng túng, là thăm thẳm và diệu vợi đến khôn cùng. Ngày lên. Đêm xuống. Cứ vậy. Mỗi một ngày biển, đảo yên bình là thêm một ngày trong những người lính dày hơn lên nỗi nhớ. Tôi nghe chuyện có nhiều người lính nhận được thư nhà mà lòng cứ phân vân, nửa muốn đọc hết ngay cho thỏa nỗi nhớ nhung nửa lại sợ... hết! Bởi nắng nhiều, mưa ít, nước phải chắt chiu, nên những hôm nào trời mưa, lính đảo được một bữa cỗ... tắm mưa tràn trề, thỏa thích.
- Còn đã hơn ngày xưa trốn mẹ tắm mưa cởi truồng nữa! Một người lính trẻ nói với tôi như vậy, với nét mặt hãy còn đong đầy cảm xúc tắm mưa của những ngày xưa đã xa.
Lên những đảo chìm, tôi cứ thích chụp ảnh những ngọn rau xanh. Tôi cho rằng đó là những hình ảnh rất đẹp về sức sống. Tựa hồ ta nhìn một ngọn lá nhỏ nhoi oằn mình vươn lên trên một hoang mạc có sức nóng khủng khiếp của những hỏa diệm sơn. Trên những đảo nổi, rau xanh được trồng ở giữa những vuông đất có tường rào chắn gió, chắn nước mặn. Còn ở đây, rau đứng sát bên sóng biển. Lạ! Vậy mà vẫn cứ xanh tươi. Rời đảo Cô Lin, tôi ngắt một ngọn rau muống ép vào sổ tay. Và gọi rau muống ở đây là rau muống xương rồng. Bởi cọng của chúng cứng cáp hơn, lá nhỏ, dài, và cũng cứng hơn rau muống ở các đảo khác. Và chỉ nhìn thôi cũng đã cảm được cái vị mặn của rau muống đảo chìm. Khi tôi viết những dòng này, đã có tin rằng tỉnh Khánh Hòa sắp sửa chuyển giao công nghệ thủy canh để quân dân Trường Sa trồng rau không cần... đất. Rồi đây, Trường Sa sẽ có nhiều rau trồng trên... nước. Và quân dân Trường Sa sẽ dần nguôi cơn khát rau xanh dữ dội của những năm tháng ngày nào có thừa thịt hộp mà lại quá thiếu rau xanh. Không còn xa nữa!
Trên đảo Sinh Tồn, tôi tình cờ gặp Bùi Văn Thịnh trong đêm giao lưu văn nghệ với anh em lính đảo. Thịnh nhập ngũ từ 1999, mới được kết nạp Đảng tháng Ba năm nay. Lẽ ra, đã được xuất ngũ nhưng anh đã làm đơn tình nguyện xin ở lại Trường Sa với nguyện vọng được phục vụ lâu dài trong quân đội. Trung tá Nguyễn Đại Dương, Đảo trưởng cho biết hiện có khoảng 20-30% cán bộ, chiến sĩ ở đây có nguyện vọng như anh Thịnh. Nhưng không phải ai cũng được toại nguyện. Từ trước khi ra Trường Sa, tôi có nghe chuyện anh Nghĩa có vợ ốm liệt giường đã mấy năm nay mà vẫn cứ đi đi về về với Trường Sa. Bệnh tình vợ anh đã vô phương cứu chữa. Nhưng anh cứ ra Trường Sa; rồi về chăm sóc vợ. Hễ nghe nơi nào có thầy thuốc giỏi (dẫu biết có thuốc tiên cũng bó tay), anh lại vội gom mấy đồng lương lính, lặn lội đưa vợ đi chữa bệnh. Gặp tôi, con người đầy bản lĩnh ấy lại rất hiền lành:
- Hình như đó là hai nửa của đời mình. Không thể thiếu một!
Tôi không thể nói gì thêm về câu chuyện hết sức cảm động này. Bởi chính bản thân nó đã là một bài ca, nói là tình ca cũng đúng, mà nói là hùng ca cũng chẳng hề sai. Có tình ca nào đẹp hơn? Có hùng ca nào mạnh mẽ hơn? Mà đã vậy thì chắc chắn tôi sẽ chẳng thể nói gì cho hay hơn được. Quả thật, có những điều như vậy, nếu ai không hiểu người Việt Nam sẽ khó lòng cắt nghĩa cho được, sẽ khó lòng tin cho được.
Mãi đến giờ, tôi cũng không thể nào quên được một cảm xúc thật khó tả khi thắp hương trên một ngôi mộ hãy còn rất mới trên đảo Sinh Tồn, bởi người nằm ở dưới hãy còn quá trẻ: Liệt sĩ Trần Văn Cường, quê Nam Định, sinh năm 1980, hy sinh tháng 6/1999. Vĩnh biệt đồng đội, vĩnh biệt bạn bè, anh đã mãi mãi gửi lại tuổi thanh xuân mười chín ở nơi này. Các đảo, các điểm đóng quân hiện có trên quần đảo Trường Sa cứ từng ngày, từng ngày hằng trải qua những phong ba, những bão táp như vậy. Ngày lại nối ngày. Mất mát. Hy sinh. Nhưng, kỳ lạ thay, càng mất mát, hy sinh, càng gắn bó không rời. Tôi nói nơi này là giọt máu thiêng phần nào cũng bởi vậy.
Những đảo tôi đã đi qua, đảo nào cũng có đàn guitar. Đời sống tinh thần quân dân ta trên đảo nay đã được nâng cao hơn trước nhiều. Lính hát. Văn công hát. Tôi hát. Tôi nghe những người lính hát mà lòng the thắt:
... nỗi nhớ cứ nghiêng về một phía...
Nỗi nhớ nghiêng về một phía, và biết lấy gì làm nguôi ngoai? Trên các tờ báo tường ở đảo Sinh Tồn, tôi thấy có rất nhiều những dòng thơ tình của lính, ở đó có những dòng chân tình, đằm thắm, như:
Lính đảo thủy chung như sóng với bờ...
Còn nhớ, trong đêm trăng đẹp tuyệt vời trên đảo vắng, đang ngồi ca hát với chúng tôi, một người lính bỗng vội chạy về doanh trại cầm ra một tràng hoa kết bằng san hô, (chắc anh đã cặm cụi bao nhiêu ngày tháng mới kết được để làm kỷ niệm) tay run run (bàn tay cầm súng chẳng hề run!) trao tặng một người con gái trong đoàn chúng tôi ra thăm đảo. Không phải đồi mồi, cũng chẳng phải ngọc trai, mà tôi thấy người con gái kia lần hồi gói tràng hoa san hô vào chiếc khăn tay. Còn người lính ấy, chắc đêm về thao thức không ngủ được, cứ mãi xao xuyến vì một chút mùi hương thật lạ, mùi hương con gái, nên sáng hôm sau cứ hỏi mãi tôi địa chỉ của bóng hồng. Có vậy, cho nên tôi mới phần nào hiểu được vì sao ca sĩ Anh Đào đã ba lần ra Trường Sa, mà lần nào hát Gần lắm Trường Sa cũng khóc. Riêng chuyến đi cùng tôi lần này, Anh Đào cũng đã khóc khô nước mắt để... xin được đi Trường Sa. Lính đảo bảo:
- Chưa thấy ai hát Gần lắm Trường Sa hay như chị Anh Đào! Tôi không có năng khiếu thẩm định về mặt này, nhưng, quả thật, những tình cảm như vậy không phải ai cũng có được.
Nhiều người nói theo lối ví von rằng hình như đến với Trường Sa, chị Anh Đào hát bằng cả trái tim. Còn tôi, chỉ nói rằng, chị đã chia sẻ đến tột cùng tâm tình cùng những người lính đảo. Chẳng những vậy, được lên đảo nào, Anh Đào cũng có một chút trà, một chút cà-phê hoặc một vài bao thuốc lá làm quà tặng những người lính.
Trong chuyến đi này, tôi đã tưởng niệm những chiến sĩ đã anh dũng hy sinh vì chủ quyền biển, đảo quê hương tại khu vực các đảo Len Đao, Cô Lin, Gạc Ma theo nghi thức của những người đi biển thực thụ. Ấy thực là những phút giây thiêng mà tôi hằng trải qua trong đời. Lễ tưởng niệm diễn ra trên tàu. Chúng tôi chỉnh tề trong đội ngũ cùng những người lính. Hoa. Trầm hương. Cả thuốc lá. Tất cả đều được thả xuống biển. Chẳng hiểu sao, sóng gió là vậy mà hương hỏa cứ dập dờn trên sóng nước, cứ mãi lấn quấn, quyến luyến con tàu như không muốn rời xa. Vong linh những người lính đã ở lại cùng biển Mẹ nơi này như muốn nói lời gì đó cùng đồng đội hôm nay? Tôi nghe một người lính khấn to:
- Những đồng đội của các anh hôm nay sẽ vững tay lái, chắc tay súng như các anh ngày nào với quyết tâm còn người còn đảo. Các anh... ở lại nơi này...
Lời nói bỗng nấc nghẹn giữa chừng... Tôi thấy nhiều người rút khăn tay lau nước mắt. Rồi lại nghe có tiếng khóc của một người con gái nào đó trên tàu. Nhìn lại, thì ra Anh Đào. Nhiều người lính gan như thép mắt cũng đỏ hoe. Nước mắt cho đồng đội. Nước mắt hòa cùng nước biển, hòa cùng dòng máu anh em... Ngày nào nhà thơ Trần Đăng Khoa kêu lên: Cái giọt máu thiêng... có phải từ những phút giây như thế này chăng? Tôi nghe một luồng hơi lạnh chạy dọc sống lưng. Con tàu kéo ba hồi còi dài, rền vang u u giữa biển trời lồng lộng. Thanh âm nghe thiêng như một lời thề. Trầm đục. Và kiêu hãnh.
Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng. Ngày nay, ta có ngày, có trời, có biển. Bờ biển ta dài, tươi đẹp, ta phải biết giữ gìn lấy nó.
Trường Sa thấm thía lời Bác dạy. Đất nước ta nối liền một dải đã hai mươi bảy năm nay. Nhưng trên các vùng biển, đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa lại có thêm những người con đất nước đã vĩnh viễn ở lại cùng biển cả, vì chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc. Chỉ nói ở Trường Sa, những tên tuổi anh hùng như Trần Văn Phương, Trần Đức Thông, Vũ Huy Trừ, Vũ Huy Lễ, Nguyễn Văn Lanh, Nguyễn Thanh Tùng, Trung đoàn 131 Công binh Hải quân, các con tàu HQ 505, HQ 671, HQ 931... đã hóa thân thành những cây phong ba, cây bão táp để mãi mãi trường tồn cùng Trường Sa anh hùng. Phong ba ơi! Bão táp ơi! Một buổi chiều trên đảo lộng gió, bất giác tôi gọi tên những loài cây nghe đầy bất trắc. Rồi chợt hỏi, chẳng biết mình đang gọi tên cây hay gọi hồn thiêng của những người lính đã mãi mãi gửi trọn thanh xuân ở nơi này?
Hôm tôi đến Trường Sa Lớn, đảo đang tất bật chuẩn bị cho cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI. Bên cột mốc chủ quyền thiêng liêng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên đảo Trường Sa, tổ bầu cử đã sắp đặt trang nghiêm những thùng phiếu đỏ có Quốc huy ngời sáng. Nơi này, quân và dân huyện đảo Trường Sa cầm lá phiếu bầu ra những người đại biểu của mình tại cơ quan quyền lực cao nhất của đất nước. Không hiểu sao, trong đầu tôi, hình ảnh các thùng phiếu bên cột mốc chủ quyền Tổ quốc lại cứ đan xen, đan xen, bồng bềnh rồi hòa lẫn cùng hình ảnh những vòng hoa dập duềnh, những sợi khói trầm hương mong manh cùng những giọt nước mắt thương cảm trong phút giây tưởng niệm thiêng liêng trên biển ở vùng đảo Gạc Ma, Len Đao, Cô Lin...
Đêm trên đảo Trường Sa Lớn thật bình yên. Mấy tháng rồi, Trường Sa mong mưa. Tiếng ầm ì nghe từ xa lắm của một cơn giông muộn làm tôi cứ hồi hộp, mong rằng sẽ có được cảm giác tắm mưa Trường Sa. Không ngủ được. Tôi đi cùng mấy người lính đến các cụm chiến đấu trên đảo. Đã quá nửa đêm từ lâu. Trăng chếch hẳn về Tây. Đột nhiên, một người lính tuần tra quay sang tôi bảo:
- Phía ấy là đất liền, anh nhỉ?
Hai tiếng đất liền như một phép màu khiến mọi người cùng im lặng. Dường như, trong mỗi người lúc này, có ít nhất một bóng hình gợi nhớ, một thứ gợi nhớ xa xôi nhưng lại thật gần, rất gần, tưởng chừng có thể cầm lấy được, có thể nắm chặt được. Bất giác, tôi nhẩm đọc mấy câu thơ của anh Từ Công Tào:
Đụn mây giăng ở chân trời
Nhấp nhô như thể núi đồi quê hương.
Mây mà cứ ngỡ đất đai quê nhà. Nỗi nhớ dường như luôn thường trực như vậy. Đất liền, quê mẹ dường như luôn hiện lên thật gần, thật rõ như vậy trong tâm khảm những người lính Trường Sa. Tôi cũng hướng mắt về phía vầng trăng đang thấp dần xuống mặt biển. Và thấy lòng nao nao. Chắc hẳn, từ nơi ấy, giờ này, vẫn có bao nhiêu người đang dõi mắt cùng hướng về phía chúng tôi, phía biển Đông.
Đêm Trường Sa. Trong tôi cồn lên một cảm giác thật lạ. Phía ngoài kia, sóng vẫn dịu dàng liếm bãi. Đêm càng sâu càng quạnh vắng vô cùng. Hòa lẫn trong rầm rì sóng biển, tôi thoảng nghe quanh đây tựa hồ có tiếng chân ai. Tiếng chân của những người lính hôm nay đang canh gác? Tiếng chân của những chiến binh đã hóa thân thành đất, thành nước nơi này hằng đêm về vẫn nhớ bước tuần tra? Hay tiếng chân của những đồng bào của tôi tự thuở ngày xưa cha Lạc vọng về?
Tất cả chỉ là một. Vâng. Chỉ là một. Chỉ có một.
Tôi lắng nghe, trong gió thoảng. Rất rõ. Nhưng thật nhẹ.
Rất nhẹ...
Người lính nằm cạnh tôi khe khẽ cựa mình. Đâu đó, có tiếng gà gáy sáng...
Trường Sa - Nha Trang, tháng 4 năm 2002