Tôi mê cuốn Ông già và biển cả của nhà văn Ernest Hemingway từ thuở còn đi học. Biển cả có cái dữ dội của nó. Còn ông già lại có cái dữ dội của ông, cái dữ dội của ý chí, nghị lực và niềm tin. Rồi ông già cũng thắng biển, ấy là lẽ đương nhiên tác giả mong muốn, dẫu chiến lợi phẩm mang về chỉ duy nhất bộ xương một con cá kiếm khổng lồ. Nhưng, cũng kèm theo đó một lẽ đương nhiên khác, phải trả giá, cái giá của chiến thắng.
Những ngày này, trên các phương tiện thông tin đại chúng, những tin tức về biển mất mùa cứ liên tục được phát đi. Biển đã xử bạc với con người rồi đó sao? Không! Ngàn đời biển vẫn là cái nôi của sự sống. Biển đã sinh ra và dưỡng nuôi sự sống. Có điều...
Tôi đi tìm nghe lời vọng của biển cả. Và tìm về một nơi chiều chiều có những con tàu nối tiếp hướng mũi ra khơi, để sớm mai quay về.
Vĩnh Thọ. Mặt trời lên chừng hai cây sào, phóng những tia nắng gay gắt xuyên qua những mảnh nhà chồ trống trước trống sau đang nhón chân đứng bên mép nước. Bờ biển và cảng cá Cù Lao bốc lên mùi tanh nồng của cá, mùi hăng hắc của dầu cặn, mùi thum thủm của rác thải và hàng trăm nghìn thứ mùi khác hòa lẫn không tả được. Tôi lăm lăm máy ảnh đợi chụp cảnh cá về. Anh Vạn, Khóm trưởng khóm Cù Lao Trung chốc chốc lại nhắc:
Cẩn thận, kẻo đạp phải mìn đó!
Tôi giật mình, ngay sát dưới chân, một đứa bé không quần, không áo đang thản nhiên ngồi thả... mìn.
Cá về! Nhưng không, gọi ghe về thì đúng hơn. Bởi ghe về chỉ có vài mớ cá lèo tèo, nhợt nhạt.
Mấy năm nay biển đói lắm! Anh Vạn than thở.
Tôi đếm đúng sáu chiếc ghe về mà lượng cá chẳng có được bao nhiêu. Có nhiều chăng chỉ là những tiếng thở dài. Chủ ghe thở dài. Bạn đi ghe thở dài. Nậu mua cá thở dài. Và đằng sau đó là biết bao nhiêu miệng ăn đang trông chờ vào những chuyến biển về... Sự ngao ngán hiện rõ trên từng nét mặt đen cháy vì dạn dày nắng gió và muối biển.
Anh Nguyễn Văn Hùng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường Vĩnh Thọ trong câu chuyện không giấu được sự lo lắng:
Từ nay đến cuối năm, còn tới hơn bốn trăm triệu đồng tiền thuế hải sản phải thu. Con số này thực sự là một thách thức. Mùa biển đã qua gần hết, thời gian còn không nhiều, mà lại là mùa mưa bão. Mà anh biết đó, bà con đi biển đến mùa mưa bão phải bán đi những gì sắm được trong các chuyến biển trước đó để ăn cho qua ngày. Lấy đâu ra?
Vậy thì làm sao? Tôi hỏi.
Biết làm sao được, đành chờ vậy. Biết đâu!
Tôi biết cái điều hy vọng mong manh biết đâu ấy của anh Hùng là rất khó có thể xảy ra. Đành rằng biển giả được đó rồi mất đó, mất đó lại được đó, rất bất thường, nhưng Vĩnh Thọ hiện có 365 chiếc ghe, thuyền đi đánh bắt thì chỉ có 10% trong số đó là trủ, lưới quét còn kiếm được bữa đực bữa cái, số còn lại lỗ triền miên. Tổn, gồm tất cả các khoản chi phí xăng dầu, ăn uống, thuốc men... cho chuyến biển, phải đi vay. Chuyến này đi về lỗ, không trả hết nợ nhưng lại phải đi vay lo tổn cho chuyến khác. Lại lỗ. Lại vay. Cứ vậy giắt dây, lãi mẹ đẻ lãi con, chồng chất. Nhiều nhà kêu bán nghề. Khổ vậy, bà con ngư dân gọi ghe thuyền, ngư cụ là nghề. Bao nhiêu năm sống chết với nghề, nghề nuôi sống người, người chăm giữ nghề. Giờ đành cắn răng kêu bán nghề trả nợ! Nghe chua xót quá! Cay cực quá! Đã vậy, ngặt nỗi, bán cũng rất khó. Trước đây mua nghề mười, giờ kêu bán chỉ năm, sáu mà cứ èo uột, không ai muốn mua. Nhưng, bán nghề, rồi làm gì?
Không biết nữa, nhưng phải bán.
Tôi hỏi mười người thì được nghe hầu như đủ cả mười câu trả lời như vậy. Vĩnh Thọ đang đau đầu trước bài toán cực kỳ hóc búa này. Anh Hùng cho biết thêm, ở Vĩnh Thọ, số ghe thuyền có công suất trên 60CV rất ít, phương tiện, thiết bị thiếu nên đội quân ra khơi mỏng và yếu. Đại đa số cứ phải chịu cái cảnh sáng vác ô ra tối vác về và đành lòng chung sống với túng thiếu, nợ nần.
Trong câu chuyện về biển, tôi bị cuốn hút hoàn toàn vào sự kỳ diệu của nó. Vậy là không đừng được nữa, tôi ngỏ ý muốn được đi biển. Và được chấp nhận với một câu tuyên bố:
Có say sóng mấy cũng phải chịu cho tới hết chuyến biển, không về nửa chừng đâu!
Tôi gật đầu, cái gật đầu hơi... bị liều lĩnh. BIỂN
Chúng tôi nhằm hướng Đông thẳng tiến. Chiếc ghe như chiếc vỏ đỗ bập bềnh trên sóng. Chẳng thấy đâu là bờ. Chỉ thấy mịt mùng khói sóng. Phải chăng, thi sĩ Thôi Hiệu ngày xưa đối cảnh tương tự thế này mà sinh ra cái tình trứ danh:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai...
Còn tôi, giờ này, tôi hơi... sợ. Chiếc ghe mong manh quá. Mà biển lại mênh mông, sâu thẳm quá! Lại không có phao cứu sinh. Bất giác, tôi liếc nhìn chiếc can nhựa năm lít mình mang rượu theo.
Gần tối, chúng tôi thả lưới. Tôi ngồi thả ganh (phao lưới) xuống nước. Thả lưới xong thì trời tối hẳn. Nô, chủ ghe, trạc tuổi tôi, cứ luôn theo dõi, quan sát lưới và chốc chốc lại cầm đèn pin quơ lên quơ xuống nhấp nháy hướng về những chiếc ghe có thắp đèn đang đi về phía lưới.
Ghe giã đó, phải canh chừng chớ để mấy ổng đi qua vướng lưới là tiêu hết!
Nô giải thích.
Xung quanh tôi, ghe mành chi chít. Biển lộng lẫy ánh đèn như một thành phố nổi. Yên quá! Đẹp quá! Dưới kia là lòng biển sâu thẳm, chất chứa biết bao điều kỳ diệu. Cách đây không lâu, giữa tháng Tám vừa rồi, Hội thảo tuyên truyền về biển, đảo các báo Đảng miền Trung và Tây nguyên đã được tổ chức tại Nha Trang. Số liệu từ Hội thảo cho thấy, vùng biển, hải đảo và ven biển nước ta được đánh giá là địa bàn chiến lược quan trọng về kinh tế, an ninh - quốc phòng; có nhiều lợi thế phát triển và là cửa ngõ của cả nước để đẩy mạnh giao lưu quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài. Trước Hội thảo này, anh Phạm Phi Hùng, đồng nghiệp tôi, đã có cuộc phỏng vấn ông Võ Thiên Lăng, Giám đốc Sở Thủy sản Khánh Hòa, và được biết, Khánh Hòa có bờ biển dài gần 250km, có hơn 72 đảo lớn nhỏ; hơn 1.658km2 đất ngập nước, 1.000km2 vũng, vịnh, đầm, phá, có vùng biển nông dưới 30m đến 2.432km2, hơn 10.000km2 thềm lục địa. Biển Khánh Hòa có nguồn lợi sinh vật phong phú, đa dạng về thành phần loài: Đã phát hiện được tới hơn 600 loài cá khác nhau, trong đó có trên 50 loài có giá trị kinh tế cao. Cá nổi vừa có giá trị vừa có tỷ lệ cao trong tổng số lượng. Trữ lượng cá vùng ven bờ được đánh giá có khoảng từ 55 đến 116.000 tấn và sản lượng khai thác hợp lý tối đa 38.000 tấn. Khoảng 90% số loài khai thác mang tính vãng lai, tức là có tính sinh thái biển và biển khơi di cư theo mùa vào vũng, vịnh ven bờ; còn lại khoảng 10% số loài mang tính tại chỗ, tức mang đặc trưng sinh thái cửa sông, rừng ngập mặn. Ngoài khơi, Khánh Hòa còn quản lý, khai thác khu vực quần đảo Trường Sa có diện tích hơn 300.000km2. Sản lượng cá ngừ các loại có giá trị xuất khẩu cao có thể đến hàng trăm nghìn tấn/năm. Trong mười năm trở lại đây, kinh tế thủy sản Khánh Hòa có những bước phát triển đáng kể; tạo được từ 11 đến 12% GDP và khoảng 65% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả tỉnh; thu hút 34.000 lao động; mối liên kết giữa phát triển kinh tế thủy sản với củng cố an ninh - quốc phòng được hình thành và gắn kết ngày càng vững chắc... Với những lợi thế của mình, khả năng toàn tỉnh phấn đấu đến năm 2000 thực hiện phát triển nghề khai thác hải sản đạt giá trị sản lượng 60.000 tấn và kim ngạch xuất khẩu khoảng 70-100 triệu USD là hiện thực.
Tôi đang ngồi ngắm biển bỗng nghe đoạn giữa lưới có một tiếng quẫy mạnh. Nô tức tốc cho ghe tới. Trong ánh đèn, một con cá cờ được kéo lên, khoảng 30kg. Nô mổ cá ngay, lấy bộ lòng ra và giải thích:
Như vậy để cá đỡ hôi và bộ đồ lòng này là món nhắm của anh em ta tối nay.
Ghe Nô chẳng có gia vị gì, chỉ có mắm, muối, ớt và mấy củ gừng tươi. Vậy mà món bao tử cá cờ luộc chấm mắm mặn dầm ớt xanh chưa bao giờ ngon đến vậy. Tôi vào ca-bin ghe lấy can rượu ra. Cá tươi quá. Giòn và ngọt lạ lùng.
Cơm nước xong, chúng tôi chuẩn bị thả lưới thì trời bỗng sập tối. Gió bắt đầu rít căng và mưa nặng hạt. Chiếc ghe như chiếc lá tre quằn quại trong sóng dữ, nó ngoi lên tận đỉnh con sóng rồi bất thần cắm đầu xuống nước tưởng chừng như đi luôn xuống đáy biển. Ngồi trong ca-bin thì hôi dầu không chịu được. Mà ra ngoài thì trời đang mưa to. Nhưng tôi đành phải chịu ướt, ra ngồi ngoài cửa, mặt cố giữ vẻ bình tĩnh mà mắt không rời chiếc can nhựa đựng rượu kề bên. Đêm đen như mực. Gió đã ngớt nhưng mưa còn nặng hạt. Nô ra lệnh thả lưới. Sóng đã hạ, chỉ còn sóng lừng. Nhưng cái sóng lừng này còn khó chịu hơn sóng lớn. Tôi ngồi thả ganh và thả luôn xuống biển những gì còn sót lại trong dạ dày. Cả đêm vật vã ấy, ngoài con cá cờ lúc đầu hôm, chúng tôi chỉ được chưa tới chục con cá chù.
Mặt trời như ngoi lên từ biển. Biển lại hiền lành sau cơn giận dữ đêm qua.
Nhiêu cá này bán được bao nhiêu? Tôi hỏi.
Ông hên đó, được thấy cảnh bắt cá cờ, ít lắm. Con cá cờ hôm qua bán chưa được trăm ngàn đâu. Còn mớ này, Nô chỉ mớ cá chù, chưa đủ nấu. Kiểu này thì không đủ tiền dầu.
Tôi không hỏi nữa mà hình dung cái cảnh năm đứa con Nô lóc nhóc ở nhà. Lấy gì ăn?
Chia tay những người bạn chài, bước lên cát, tôi đi liêu xiêu trong cơn say sóng bờ dữ dội. Mặt đất chao đảo như con thuyền trên sóng. Nô hỏi:
Sao, có còn dám đi nữa không?
Tôi cười. May mà còn gượng cười được.
Nô nói đúng. Tôi đã hên. Hên theo ý nghĩ của tôi. Bởi chỉ trong vài ngày ngắn ngủi với biển, tôi đã được biển dành cho tất cả sự mơn trớn, dịu dàng cũng như bao nhiêu là dữ dằn, cuồng nộ.
TỪ LỘNG...
Khóm đảo Bích Đầm những ngày này thật buồn. Đây là một làng biển có từ lâu đời, thuộc phường Vĩnh Nguyên, thành phố Nha Trang.
Đến thăm gia đình những người làm ở Hợp tác xã Thủy sản Bích Hải, không khí còn buồn hơn. Đã gần ba tháng nay, họ chưa có tiền lương. Biển đói quá! Hợp tác xã đã toát mồ hôi hột chạy lấy cái ăn cho anh em lao động bằng cách hàng tháng tạm ứng cho mỗi gia đình một bao gạo 50kg. Tính người ở biển hình như không thích dông dài. Anh Nguyễn Văn Phú, Khóm trưởng khóm Bích Đầm, nói:
Để anh hiểu đời sống bà con thế nào, tôi sẽ đưa anh đi thăm. Nhớ nhắc tôi đưa đến thăm nhà anh Nguyễn Hùng Tiến, đang có chân trong Hợp tác xã Bích Hải. Mấy tháng nay, cả nhà chín miệng ăn sống nhờ vào những bao gạo tạm ứng mỗi tháng của hợp tác xã. Anh Tiến làm chưa có lương. Chị vợ có ai kêu thì chạy gánh nước mướn kiếm ngày vài ba ngàn, chỉ đủ tiền kẹo bánh cho các cháu.
Có thật như vậy sao? Khóm đảo Bích Đầm có 165 hộ, 945 khẩu hoàn toàn sống với biển, bằng các nghề mành chong, trủ, đăng, câu tay... Nồi gạo đặt ngoài biển. Mà biển lại thế này...
Gặp ông Nguyễn Văn Dìa, Chủ nhiệm Hợp tác xã Thủy sản Bích Hải, nét mặt ông hằn lên những nếp nhăn:
Chúng tôi nhận khoán đầm từ tháng 12/1997. Đầu tư cho giàn nghề và một số khoản khác hết 450 triệu đồng. Mức khoán hiện nay là 350 triệu đồng/năm. Đến nay chúng tôi thu chưa được 500 triệu đồng, mà chỉ còn khoảng một tháng nữa thì hết mùa. Không biết những ngày còn lại sẽ ra sao.
Tôi nhẩm tính, từ nay đến hết mùa, chỉ khoảng một tháng nữa, Hợp tác xã Thủy sản Bích Hải sẽ phải cày cho ra thêm 100 triệu đồng nữa mới... huề vốn! Phải vượt lên trên con số đó mới có thể nói đến chuyện dư dả chút ít để chia. Nhưng, liệu có được không?
Đem băn khoăn này hỏi ông Dìa, tôi lại nhận được sự... băn khoăn không kém của ông:
Biển mà ông. Chưa biết được. Nhưng cái nghề cá tìm lưới (theo Viện Hải dương học, lưới đăng thuộc nhóm cố định, được giăng cố định ở một nơi, cá đi ra phía Bắc hoặc vào phía Nam cứ đi theo chớn nước mà vào lưới) giờ bị bao vây dữ quá. Con cá nào may mắn lắm mới sống sót lọt vào tới đây được vì phải qua muôn trùng lưới giăng các loại. Đã vậy, sản phẩm chủ yếu của chúng tôi là cá thu xuất khẩu, mà giá giảm kinh khủng, năm ngoái còn bán được 27-32 nghìn/kg, năm nay chỉ còn 16-20 nghìn/kg.
Nhưng, ông Dìa nói dù sao cũng cố gắng bám biển, với một cái lẽ rất cụ thể, rất nghiệt ngã:
Ở trong đất liền thất nghiệp còn ngọ nguậy đạp xích-lô, ba-gác, buôn thúng bán mẹt kiếm đồng rau đồng cháo được chứ ở đảo thế này không làm biển thì làm gì?
Như đã hẹn, tôi lại về Vĩnh Thọ thăm gia đình anh H.P (thành thật xin lỗi bạn đọc, tôi không thể nêu rõ tên vì chị vợ anh H.P cứ khẩn khoản bảo đừng nêu tên trên báo, sợ con nó buồn). Vợ chồng anh có hai chiếc ghe, trước đây thuộc loại khá trong vùng, và là một Mạnh Thường Quân rất sốt sắng mỗi khi phường, khóm có việc cần. Gần đây, gia đình anh chị suy sút, vay tiền của Ngân hàng không trả được nên bị niêm phong nhà, phải sang ở nhờ nhà ông bố gần đó. Ngồi tiếp chuyện chúng tôi, chị vợ mắt cứ đỏ hoe, thỉnh thoảng lại sụt sịt khóc. Chị nói bây giờ thì hơi quen quen rồi chứ cái hồi nhà mới bị niêm phong, thằng con trai lớn của chị cứ đòi chết đòi sống, nó cứ giậm chân giậm cẳng than:
Mình cũng cố làm ăn chứ có phải bài bạc gì đâu mà phải ra ở mái hiên thế này hở trời!
Bây giờ thì anh H.P đi làm thuê. Hai chiếc ghe kêu bán nhưng chẳng thấy ai hỏi han gì. Còn chị, bàn tay trước kia nắm bạc triệu thì nay cóp nhặt từng một trăm, hai trăm đồng, từ bán kẹo, nhãn, cóc, ổi... kiếm thêm chút gì cho con ăn. Tôi ái ngại. Thế này thì không đủ ăn. Lấy đâu trả nợ. Chia tay chúng tôi, chị H.P còn nói thêm:
May mà có ông ngoại các cháu làm rẫy ở Sông Cầu, cứ hàng tháng gửi vô cho ít tiền mua gạo.
Tuổi chị đã chừng này, ông ngoại các cháu chắc đã già lắm.
Theo kỹ sư Trần Hiệp, Chi cục trưởng Chi cục Bảo vệ nguồn lợi thủy sản Khánh Hòa, những phương tiện đánh bắt có công suất dưới 90CV, khai thác ở độ sâu dưới 50m được coi là đánh bắt ven bờ. Tính đến tháng 12/1997, toàn tỉnh có đến 47,5% số ghe thuyền có công suất chưa đến 20CV. Loại này không phải đăng kiểm mà chỉ được kiểm tra hành chính vì chỉ đánh bắt trong vịnh, ven bờ. Số lượng ghe đánh bắt ven bờ nhiều như thế, lại thêm các nghề đánh bắt bằng chất nổ, chất độc, xiết điện, giã nhũi, cào rùng, cào tôm ven bờ... vẫn còn hoạt động nhiều nên sản lượng đánh bắt trong lộng ngày càng suy giảm nghiêm trọng. Lộng ở đây có thể hiểu là ven bờ.
Làm việc với Tiến sĩ Nguyễn Tác An, Viện trưởng Viện Hải dương học Nha Trang, ông cho biết, hiện nay, sản lượng đánh bắt ven bờ giảm từ 1,5 đến 2,5 lần so với 20-25 năm về trước. Một số chủng loại có nguy cơ cạn kiệt hẳn như ốc xà cừ, bào ngư, ngọc trai, hải sâm... Đây là hậu quả của sự khai thác quá mức, không kiểm soát được số lượng cần thiết để duy trì tái sinh chủng quần.
Theo số liệu của Viện Hải dương học Nha Trang, toàn tỉnh Khánh Hòa có khoảng 1.500ha bãi triều có thực vật ngập mặn như sú, bần, vẹt, đước... (ta quen gọi là rừng ngập mặn) phân bổ ở xã Vạn Hưng, thuộc huyện Vạn Ninh; các xã Ninh Giang, Ninh Phú, Ninh Hà, Ninh Ích, thuộc huyện Ninh Hòa; xã Cam Thịnh, thuộc huyện Cam Ranh. Nhưng hiện tại, việc phá rừng ngập mặn làm ao, đìa nuôi tôm, nuôi thủy sản diễn ra quá mạnh đã gây tác hại lớn đến điều kiện sinh sản, điều kiện sống của sinh vật, gây thiệt hại nguồn lợi thủy sản và mất cân bằng sinh thái. Theo Tiến sĩ Nguyễn Tác An, có lẽ, ta cần phải kịp thời có những chính sách, biện pháp hữu hiệu khôi phục rừng ngập mặn nhằm từng bước khôi phục nguồn lợi thủy sản ven bờ.
Khi tôi chuẩn bị viết bài này, một đồng nghiệp ở Vạn Ninh gọi điện về báo:
Anh ra ngay, ngoài này vừa bắt giữ một trường hợp khai thác trái phép rạn san hô và đá ngầm ở khu vực biển Hòn Vung, thuộc vịnh Vân Phong.
Tìm hiểu, được biết những người này vô tư dùng bè ra biển kéo đá san hô về bán. Mỗi ngày họ kéo đến ba, bốn chuyến bè, mỗi chuyến bè chở khoảng 10m3 đá san hô. Như vậy, mỗi ngày một chiếc bè khai thác khoảng 30m3 đá san hô! Cứ cái đà như vậy, nếu không có biện pháp ngăn chặn kịp thời, chẳng bao lâu nữa rạn san hô ở đây sẽ lên... bờ sạch, bởi cái giá hiện nay là 70 nghìn/m3 đá san hô. Trạm Bảo vệ nguồn lợi thủy sản Vạn Ninh cho biết hiện có nhiều hộ lấn chiếm mặt biển làm đìa nuôi tôm sú thịt đã sử dụng đá san hô làm bờ kè. Có cầu ắt có cung. Vậy là phong trào khai thác san hô và đá ngầm dưới biển diễn ra ở nhiều nơi trên địa bàn huyện Vạn Ninh như điểm kinh tế mới Dốc Đá Trắng, Vạn Hưng, Hòn Một, Bịp Sơn, Hòn Vung... nằm trong khu vực vịnh Vân Phong.
Con người đang tàn phá rừng ngập mặn, tàn phá các rạn san hô và đá ngầm cũng có nghĩa là đang tàn phá những cái tổ sinh sôi, nảy nở của nguồn thủy sản ven bờ vốn đã cạn kiệt. Như chúng tôi đã đề cập, tuy chỉ chiếm 10% trong tổng số loài khai thác nhưng các loài mang đặc trưng sinh thái cửa sông, rừng ngập mặn này có một vị trí rất quan trọng trong hệ sinh thái biển cũng như trữ lượng, sản lượng khai thác. Vậy mà nguồn lợi thủy sản này đang bị hủy diệt ngay từ trong trứng nước, con nào may mắn sống sót thì bị bủa vây gay gắt với những cách thức đánh bắt hủy diệt hàng loạt, bất kể lớn bé. Tương lai nguồn lợi thủy sản ven bờ ra sao đang là một câu hỏi được đặt ra khá bức xúc và chưa có câu trả lời thỏa đáng. Có chăng, chỉ là một câu trả lời buồn: Cạn kiệt!
Năm nay, theo các nhà nghiên cứu biển, do ảnh hưởng của El Nino nên các luồng cá, đặc biệt là cá nổi di cư, có biến động lớn. Nguồn lợi thủy sản ngoài những biến động theo mùa còn có những biến động mang tính chu kỳ. Có nghĩa là biển có mùa được, mùa mất, năm được, năm mất. Nhưng, trong tương lai, có một điều chắc chắn là biển sẽ chẳng bao giờ còn được những vụ mùa bội thu như trước nữa. Vì bàn tay con người đã vắt kiệt sức sinh sôi của nó, đặc biệt là vùng ven bờ. Và như vậy, dấu hỏi cho số phận của những ngư dân sống bằng các nghề trong lộng lâu nay đang dần hiện lên ngày càng rõ, ngày càng gay gắt.
... RA KHƠI
Khi tôi đặt bút viết những dòng này, biển xanh lại đang nổi sóng. Ngoài kia, áp thấp đang mạnh dần lên thành bão. Những con tàu chuẩn bị ra khơi nằm ngước nhìn bầu trời nặng nề, vần vũ. Có lẽ, hơn ai hết, chỉ có nó, nói theo Xuân Quỳnh, mới thực hiểu nhường nào cái mênh mông của biển cả. Hình ảnh những con tàu dũng mãnh lướt sóng, với tôi, đẹp tựa như cái khát vọng bỏng cháy vươn ra khơi xa của những người đi biển. Năm 1996, toàn tỉnh có 51,4% tàu thuyền đánh bắt có công suất dưới 20CV. Đến cuối năm 1997, con số đó chỉ còn 47,5%. Tàu thuyền có công suất lớn tăng nhanh. Khơi xa! Ở đó, có biết bao nhiêu mời gọi...
Đến nay, theo thống kê, toàn tỉnh đã có đến hai mươi hai cơ sở đóng tàu thuyền có khả năng đóng được tàu có công suất đến 350CV. Đặc biệt, trong tình hình gỗ ngày càng khan hiếm như hiện nay, cơ sở đóng tàu đánh bắt xa bờ ở Cam Ranh đã sản xuất thành công hai vỏ tàu composite thuộc dự án đánh bắt xa bờ cho Hợp tác xã nghề cá Vạn Giã là một cố gắng đáng khích lệ. Nhiều cơ sở trong số này đã có những hợp đồng đóng tàu lớn cho các tỉnh xa ở tận Nam bộ. Theo ông Võ Thiên Lăng, Giám đốc Sở Thủy sản, sắp tới, Khánh Hòa sẽ xây dựng cảng cá Hòn Rớ với tổng giá trị hai mươi lăm tỷ đồng; sẽ được Trung ương giao quản lý cảng Đá Tây thuộc huyện Trường Sa làm căn cứ dịch vụ hậu cần nghề cá của tỉnh và khu vực. Xin được nói thêm là công trình tôn tạo đảo Đá Tây này đã thực hiện tôn tạo, trùng tu, sửa chữa nhiều công trình nhà ở, trạm phát điện, trạm bơm nước, nhà kho, trạm bơm nhiên liệu, sân bay trực thăng... với tổng giá trị 58 tỷ đồng. Hiện nay, Sở Thủy sản đang lập dự án khai thác công trình này với tổng kinh phí dự toán 50 tỷ đồng. Có thể nói, Khánh Hòa đang hướng ra biển khơi với những lợi thế mà không phải tỉnh nào cũng có được.
Ở Vĩnh Thọ, chị Ngô Thị Duy Hiền là người đầu tiên (đến nay vẫn là duy nhất) vay vốn từ chương trình đánh bắt xa bờ. Chị quả là người cẩn thận, ghi cả ngày tháng hạ thủy con tàu và có cả những trang nhật ký cụ thể theo dõi thu chi cho từng chuyến biển. Trong câu chuyện với chúng tôi, chị tỏ ra hết sức lo lắng về khoản tiền vay 962 triệu đồng, lãi suất 0,81%/tháng, kỳ hạn bảy năm cho chiếc tàu của mình. Khối tài sản lớn quá! Chị nói chỉ có Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện giúp đỡ mình mới làm được như vậy chứ nếu không thì có nằm mơ cũng chẳng thấy được. Như bao phụ nữ khác ở biển, chị không được đi biển (các ghe đi biển rất kiêng phụ nữ lên ghe), nhưng ở nhà lòng dạ bồn chồn còn khổ hơn đi biển nữa là khác. Hiện tại chị chỉ phải trả vốn chứ chưa phải trả lãi cho đến hai năm sau (tàu của chị hạ thủy hồi tháng 1/1988) nhưng cứ nghĩ tới cái khoản lãi cứ phải trả mỗi tháng trên bảy triệu đồng là lòng cứ lo ngay ngáy. Xuất quân những chuyến đầu xem ra phấn khởi. Có chuyến đạt hai tấn, tuy bán chỉ giá hai mươi nghìn đồng mỗi ký nhưng cũng còn có dư đôi chút. Nhưng, những chuyến sau đó bị lỗ, có chuyến lỗ sáu triệu, có chuyến lỗ mười một triệu, có chuyến lỗ mười ba triệu... Chị kể, nhiều khi ngoài tàu gọi điện về báo đã được từng ấy cá, đối chiếu giá ở chợ, chị khấp khởi mừng thầm. Thế nhưng, khi tàu về, lượng cá có nhiều thêm (nghe báo giá được anh em rất hăng) nhưng giá lại rớt đến thê thảm. Những con cá được anh em nâng như nâng trứng từ khơi mang về cứ bị lật qua, lật lại. Rồi dạt. Rồi ép giá. Đành chịu. Giá mấy cũng phải bán đổ bán tháo. Cá ăn trừ cơm chẳng được. Mà không bán cho họ thì bán cho ai?
Anh Hồ Văn Hảo, Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường Xương Huân say sưa kể tôi nghe chuyện những ngày đầu mới phất của con cá ngừ đại dương, ngư dân vẫn quen gọi là cá bò gù. Năm 1996, tình cờ, một phát hiện thú vị về giá trị loài cá này trên thị trường nước ngoài đã tạo nên một hấp lực mãnh liệt cuốn hút ngư dân vào nó. Không bị cuốn hút sao được, khi loài cá này có trọng lượng rất lớn, mỗi con 50-70kg, thậm chí cả tạ mà giá bán lại được tới 50-60 nghìn đồng/kg. Thời đại bò gù mở ra. Vậy là những tàu khơi làm nghề cản khơi, câu to (câu cá mập lấy vi), mành... thi nhau chuyển đổi giàn nghề sang câu bò gù. Giàn nghề cũ gác lại, thay vào đó là giàn nghề câu bò gù khoảng 20-25 triệu đồng và một ít lưới đánh cá chuồn để làm mồi câu khoảng chừng năm triệu đồng nữa. Nhưng, cái thời vàng son ấy chóng qua! Cùng với sự giảm sút sản lượng đánh bắt là sự tụt dốc kinh khủng về giá cả của cá bò gù. Phía nước ngoài mua không ổn định. Cá về, sướng thì mua còn đỡ đỡ, không sướng thì dạt, ép giá. Có thời điểm chỉ còn 16-18 nghìn đồng/kg. Mỗi một chuyến đi câu bò gù chừng 10-15 ngày (loại tàu tương đối nhỏ) tổn mất khoảng 15-20 triệu đồng. Đi về mà chỉ được vài ba con lại bị dạt, ép giá như vậy nữa coi như mất trắng tổn. Anh Hảo kể chuyện có nhiều trường hợp nậu bỏ tiền ra bao ứng toàn bộ tổn có chuyến 40-50 triệu đồng, tàu đi chưa đầy tháng về phải trả lãi suất từ 12-15%! Quả là một lãi suất cắt cổ! Nhưng, ngư dân phải đối mặt, nói đúng hơn là phải chấp nhận chạy vạy cho từng chuyến biển bằng cách vay nóng như vậy vì họ không có đủ các điều kiện thế chấp tài sản để vay vốn ngân hàng. Chuyến nào may thì về trả được nợ. Không may thì giắt dây để đó, nhờ... trời chuyến khác! Nhà nước khuyến khích ngư dân ra khơi, nhưng, đến nay, ở Xương Huân đã có nhiều ghe thuyền trước đây đi làm khơi nay lại quay về với... lộng. Vì đi lộng đỡ phải lo tổn hơn, dẫu dư biết rằng làm lộng còn đói hơn đi khơi rất nhiều.
Anh Hảo cho rằng hiện nay, quy định tàu có công suất từ 90CV trở lên mới được gọi là đánh bắt xa bờ và được hưởng những chính sách ưu đãi của Nhà nước là đúng. Nhưng, trên thực tế, trước đây có nhiều ghe công suất 45-70CV cũng đã đi đánh bắt rất xa, có thể xa hơn rất nhiều so với mực nước sâu 50 mét quy định ranh giới gần, xa bờ. Nên chăng, ta cần nới rộng hơn diện ưu tiên?
Tham khảo ý kiến, nhiều bà con ngư dân đang thực hiện vay vốn chương trình đánh bắt xa bờ cho rằng, bên cạnh tăng cường những chính sách ưu tiên cho đánh bắt xa bờ như miễn, giảm thuế đối với các cá nhân, tổ chức thực hiện đánh bắt xa bờ; giảm 50% các loại thuế doanh thu tài nguyên; miễn, giảm trong ba năm đầu thuế lợi tức kể từ khi có lợi tức chịu thuế; chủ phương tiện chỉ phải nộp lệ phí trước bạ 1% giá trị tàu thuyền... Nhà nước nên nghiên cứu để hạ thấp hơn nữa lãi suất cho vay, kéo dài thời hạn cho vay để bà con ngư dân an tâm hơn khi đầu tư. Hiện nay, có một ràng buộc rất lớn là người muốn nhận vốn đầu tư đóng mới tàu thuyền đánh bắt xa bờ phải có ít nhất 15% vốn tự có trên tổng vốn đầu tư dự án. Một dự án tàu đánh bắt xa bờ hiện có giá trị khoảng một tỷ đồng. Như vậy, có nghĩa là người muốn đứng ra làm việc này buộc phải có trong tay ít nhất 150 triệu đồng. Với con số này, những người nghèo thì làm thế nào?
*
* *
Thấy tôi loay hoay tìm tư liệu, một người bạn ở Viện Hải dương học Nha Trang hỏi:
- Có khi nào đầu tư tàu thuyền đánh bắt xa bờ cho ngư dân xong lại phải thuê... công nhân trên đất liền xuống điều khiển phương tiện không?
Hóa ra, ông bạn hỏi như vậy cũng có cái lý của ông. Theo số liệu điều tra năm 1996 của Viện Hải dương học Nha Trang, tỷ lệ gia tăng lực lượng lao động được đào tạo ở vùng biển, ven biển của tỉnh là 36,2%. Nhưng tỷ lệ lao động được đào tạo nghề trong tổng số lao động hiện có chỉ có 8,5% (con số này ở Singapore là 35%, Thái Lan 27%)! Ngày trước chỉ chạy ghe con, quay cho máy nổ, chiều giong ra biển rồi sáng lại về, rất đơn giản. Nay ghe lớn, máy móc hiện đại, nào là máy nổ có công suất lớn phải có cách vận hành, bảo dưỡng tốt; nào là các phương tiện hiện đại như rađa, máy tầm ngư định vị, thông tin liên lạc... Biết làm thế nào? Trong khi đó, người ở biển lại bị cái vòng kim cô luẩn quẩn: Biển đói, đời sống khó khăn, việc học hành của con em lại bị hạn chế.
Biển lộng, tài nguyên đã cạn. Con người đang hướng ra khơi. Khánh Hòa cũng ở trong xu hướng đó. Nhưng, dặm trường ra khơi còn đầy gian khó đang thử gan những người ra với biển. Vấn đề là trong bước đường nhiều trắc trở đó, phải chọn những bước đi thế nào cho thật nhanh mà lại thật vững, thật chắc.
Đại hội đồng Liên hiệp quốc lấy năm nay làm năm Quốc tế Đại dương, như muốn lấy đó làm một thông điệp nhắc nhở con người xem lại thái độ, cung cách khai thác tài nguyên biển. Nay mai, nhân loại sẽ bước sang thế kỷ 21, thế kỷ được coi là thế kỷ của đại dương. Biển mênh mông và sâu thẳm vậy, nhưng nên nhớ, không phải là không cùng. Mà gắn với nó là triệu triệu những thân phận nổi nênh theo từng con nước bám biển mưu sinh, sống trên biển, chết trong biển. Tôi nghe tự biển xa có những lời thảng thốt vọng về. Dường như ấy là những lời kêu gọi cho một ngày mai biển vẫn mãi bình yên xanh; cho một ngày mai những con người nặng tình với biển vẫn mãi xanh những mơ ước, dù rất đỗi giản đơn: Được sống với biển một cách an lành.
Xếp lại những trang bản thảo, trong tôi vẫn còn nghe thật rõ những mơn trớn, dịu dàng cũng như những dữ dằn, cuồng nộ của biển cả.
Phải, tôi vẫn nghe, đang nghe tiếng vọng biển.
Nha Trang, tháng 6 năm 1998